haitaynamkg

Tổng hợp kiến thức nhân loại
Nguyễn Văn Hải

Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào - Hoang Phong PDF

----------------------------------------------------------------------------------------------------
KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO
Hoang Phong biên soạn và dịch
Nhà xuất bản Phương Đông 2012




Mục Lục
Khổ đau phát sinh và vận hành như thế nào?
Đức Phật thuyết giảng về Vô Ngã
Chánh ngữ và khái niệm về ba cửa ngõ
Khái niệm về Nghiệp trong Phật Giáo
Chiến thắng và chiến bại
Lục Ba La Mật là gì?
Một số khái niệm căn bản trong Phật Giáo
Những lời cuối cùng của Đức Phật
Thập Nhị Nhân Duyên

KHỔ ĐAU PHÁT SINH VÀ VẬN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?
Kinh ACELA-SUTTA

Lời giới thiệu: Kinh Acela-sutta còn gọi là kinh Acela Kassapa-sutta. Tiếng Pali acela có nghĩa là trần truồng, ám chỉ tín đồ của các giáo phái chủ trương khổ hạnh và sống trần truồng, kinh sách Hán ngữ gọi chung các giáo phái này là "lõa hình ngoại đạo". Đương thời với Đức Phật các giáo phái chủ trương không ăn mặc quần áo gồm có đạo Ajivaka và một trong các chi phái của đạo Jaïn. Kassapa là tên của một người tu tập theo các giáo phái ấy.

 Acela-sutta là một bài thuyết giảng ngắn của Đức Phật được ghi trong Trung bộ kinh (Majjhima-Nikaya, ấn bản PTS, 1884-1898, quyển II, 18-19). Bản lược dịch dưới đây dựa vào hai bản dịch từ tiếng Pali sang các ngôn ngữ Tây phương: một bằng tiếng Pháp do Môhan Wijayaratna dịch (Sermon du Bouddha, nxb Cerf, 1988, tr. 131-135,) và một bằng tiếng Anh do Pya Tan dịch (Living Word of the Buddha, SD Vol.18, No 5, The Pali Center, 2007, tr. 73-77). Ngoài ra bản dịch tiếng Việt này còn được dựa thêm vào một số các bản dịch khác, trong số này có thể kể ra một bản dịch khá phổ biến của Thassaro Bhikkhu (http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/sn/sn12/sn12.017.than.html).

 Kinh Acela Kassapa Sutta nguyên nghĩa là "Kinh về người tu khổ hạnh trần truồng tên là Kassapa" ("The Discource on Kassapa the Naked Ascetic"), thế nhưng một vài tác giả lại căn cứ vào ý nghĩa sâu xa của bài kinh để gọi kinh này là "Kinh về sự Tạo tác do điều kiện" (tức Lý Duyên Khởi), chẳng hạn như trường hợp các bản dịch của Môhan Wijayaratna, Jeanne Schut,v.v...

 Sau đây là bản dịch sang tiếng Việt:

 

 "Tôi từng được nghe như thế này : Một lần Đấng Thế Tôn ngụ tại Kalandakanivapa (một khu rừng trong công viên Trúc Lâm) gần thành Vương Xá.

 Hôm ấy vào lúc tinh sương, Đấng Thế Tôn ăn mặc xong và khoác thêm lên người một chiếc áo ấm (một loại áo khoác may hai lớp gọi là y thượng - sanghati), và đi vào thành Vương Xá để khất thực. Vào đúng lúc ấy có một người tu khổ hạnh không quần áo tên là Kassapa (Môhan Wijayaratna dịch là "người khổ hạnh trần truồng" (un ascète nu), thế nhưng Thanissaro Bhikkhu thì dịch là người "khổ hạnh không quần áo" (a clothless ascetic) và giải thích thêm rằng "không ăn mặc quần áo" cũng có nghĩa là không dùng quần áo may bằng vải vóc. Pya Tan cho biết là theo nhiều kinh sách thì "quần áo" của họ không phải là vải vóc nhưng có thể là quần áo thô dệt bằng sợi gai, hay làm bằng vỏ cây hoặc các vật liệu thiên nhiên khác. Dù sao thì những người tu tập theo các giáo phái khổ hạnh nói chung cho rằng mình "khoác lên người manh áo của không gian" để biểu trưng cho sự xa lìa thế tục và không màng đến những giá trị thường tình), Kassapa nhìn thấy Đấng Thế Tôn từ xa, liền tiến đến gần Đấng Thế Tôn, kính cẩn chào hỏi bằng những lời lẽ lễ độ, và sau đó đứng nép sang một bên. Sau khi đã đứng hẳn sang một bên, người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa mới cất lời như sau: "Nếu Ngài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúng tôi một dịp may được đón nhận lời giải đáp, thì chúng tôi sẽ xin được nêu lên một thắc mắc".

 Đấng Thế Tôn đáp lại: "Này Kassapa, không phải là lúc để nêu thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhà cửa (tiếng Pali là antaraghare, có nghĩa là nơi có dân cư sinh sống. Câu trả lời của Đức Phật ngụ ý là chúng ta đang đi khất thực không phải là lúc bàn luận về giáo lý).

 Người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa lại cố nài nỉ lần thứ hai: "Nếu Ngài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúng tôi một dịp may được đón nhận lời giải đáp, thì chúng tôi sẽ xin được nêu lên một thắc mắc".

 Đấng Thế Tôn đáp lại: "Này Kassapa, không phải là lúc để nêu lên thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhà cửa".

 Người tu khổ hạnh không quần áo lại cố nài nỉ lần thứ ba: "Nếu Ngài Cồ-đàm cho phép và ban cho chúng tôi một dịp may được đón nhận lời giải đáp, thì chúng tôi xin được nêu lên một thắc mắc".

 Đấng Thế Tôn đáp lại: "Này Kassapa, không phải là lúc để nêu lên thắc mắc, chúng ta đang ở một nơi có nhà cửa".

 Đấng Thế Tôn đã ba lần khước từ, [thế nhưng] người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa vẫn cứ nài nỉ: "Thưa Ngài Cồ-đàm, thật ra thì những gì chúng tôi muốn hỏi cũng không phải là trọng đại lắm".

 Cuối cùng Đấng Thế Tôn đành phải chấp thuận: "Này Kassapa, vậy muốn hỏi gì thì cứ hỏi".

 Người tu khổ hạnh không quần áo liền cất lời: "Thưa Ngài Cồ-đàm, khổ đau của một cá thể có phải là do cá thể ấy tự tạo ra cho mình hay không?".

 Đấng Thế Tôn trả lời như sau:

 - Này Kassapa, khổ đau không phát sinh giống như thế".

 -Thưa Ngài Cồ-đàm, nếu khổ đau của một cá thể không phải là một thứ gì do chính cá thể ấy tạo ra, thì có phải là một thứ gì đó tạo ra bởi một người nào khác? 

 Đấng Thế Tôn lại trả lời như sau:

 - Này Kassapa, khổ đau không phát sinh giống như thế".

 - Thưa Ngài Cồ-đàm, nếu khổ đau không phải là một thứ gì do chính cá thể ấy tạo ra, cũng không phải là một thứ gì do kẻ khác tạo ra, thì khổ đau của một cá thể có phải là một thứ gì phát hiện một cách ngẫu nhiên hay không?

 Đấng Thế Tôn lại trả lời như sau:

 - Này Kassapa, khổ đau không phát sinh giống như thế.

 - Thưa Ngài Cồ-đàm, vậy khổ đau của một cá thể có phải là một thứ gì phi-hiện-hữu hay chăng?

 Đấng Thế Tôn trả lời như sau:

 - Có chứ, này Kassapa, khổ đau không phải là một thứ gì phi-hiện-hữu, mà khổ đau là một thứ gì hiện-hữu-thật-sự.

 - Có thể Ngài Cồ-đàm không hiểu được khổ đau của một cá thể, và cũng chưa hề nhìn thấy khổ đau của một cá thể đấy thôi?

 - Không đúng thế, này Kassapa, Như Lai không phải là người không hiểu được khổ đau của một cá thể. Như Lai là người hiểu được khổ đau của một cá thể là gì. Như Lai là người nhìn thấy khổ đau của một cá thể. 

 - Thưa Ngài Cồ-đàm, làm thế nào lại có thể như thế được? Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thể là do cá thể ấy tự tạo ra cho mình hay không, thì Ngài trả lời như thế này: "Khổ đau không phải phát sinh giống như thế". Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thể là do một người khác tạo ra cho cá thể ấy hay không, thì Ngài trả lời như thế này: "Khổ đau không phát sinh giống như thế". Khi tôi hỏi có phải khổ đau của một cá thể là một thứ gì phát sinh một cách ngẫu nhiên hay không, thì Ngài trả lời như thế này: "Khổ đau không phát sinh giống như thế". Khi tôi hỏi có phải khổ đau là một thứ gì phi-hiện-hữu, Ngài trả lời như sau: "Khổ đau của một cá thể không phải là một thứ gì phi-hiện-hữu. Khổ đau của một cá thể là một thứ gì hiện-hữu-thật-sự". Khi tôi hỏi Ngài Cồ-đàm có hiểu được và có nhìn thấy được khổ đau của một cá thể hay không thì Ngài trả lời như sau: "Như Lai không phải là người không hiểu được khổ đau của một cá thể. Như Lai là người hiểu được khổ đau là gì. Như Lai là người nhìn thấy được khổ đau. Thưa Ngài Cồ-đàm, vậy kính xin Ngài giải thích cho là khổ đau phát sinh như thế nào?"

 [Đấng Thế Tôn trả lời như sau:] - "Nếu bảo rằng một cá thể thực thi hành động và cũng chính cá thể ấy nhận lãnh hậu quả của những hành động ấy - đúng như là nhà ngươi đã nói lúc đầu: "Khổ đau của một cá thể do chính cá thể ấy tạo ra", thì cách khẳng định ấy sẽ rơi vào chủ nghĩa trường tồn (eternalism) (có nghĩa là cá thể khi nhận lãnh hậu quả vẫn còn giữ nguyên như lúc thực thi hành động, không có gì biến đổi, nói cách khác là cá thể trường tồn và bất biến). Nếu bảo rằng một cá thể thực thi hành động và một cá thể khác nhận lãnh hậu quả của những hành động ấy thì có nghĩa là một người nào đó nhận lãnh khổ đau vì lỗi lầm của một người khác thực thi, cách khẳng định ấy sẽ rơi vào chủ nghĩa hủy hoại (annihilationism) (có nghĩa là một cá thể thực thi và sau đó là một cá thể khác tái sinh và nhận lãnh hậu quả, cá thể trước đây đã từng thực thi hành động thì đã bị hủy hoại và đoạn diệt, không còn một sự liên hệ nào giữa hai cá thể). Này Kassapa, vì thế Như Lai thuyết giảng một giáo lý không rơi vào hai thái cực, [bằng cách] giữ đúng con đường ở giữa, theo đó: vô minh tạo điều kiện làm phát sinh ra các tạo tác tâm thần (formations mentales - volitional activities); các tạo tác tâm thần tạo điều kiện làm phát sinh ra tri thức (consciousness); tri thức tạo điều kiện làm phát sinh ra các hiện tượng tâm thần (phénomènes psychiques - mental activities) và các hiện tượng vật chất (tức là thân xác, và cũng xin nhắc thêm là Pya Tan và Thanissaro Bhikkhu dịch chung "hiện tượng tâm thần và hiện tượng vật chất" là danh-xưng-và-hình-tướng: "name-and-form". Trong bản gốc bằng tiếng Pali là: "paccaya nama, rupam". Môhan Wijayaratna dịch là "hiện tượng tâm thần và hiện tượng vật chất", tuy không được sát nghĩa lắm với bản gốc tiếng Pali nhưng chính xác và dễ hiểu hơn); các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất tạo điều kiện làm phát sinh ra sáu khả năng (tức là sáu thứ giác cảm: thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và tâm thức hay khả năng nhận biết); sáu khả năng tạo điều kiện làm phát sinh ra sự tiếp xúc (ngũ giác và sự diễn đạt của tri thức giúp cho sự tiếp xúc với môi trường chung quanh và các tư duy trong tâm thức có thể xảy ra được); sự tiếp xúc (qua ngũ giác và tri thức) tạo điều kiện làm phát sinh ra giác cảm; giác cảm tạo điều kiện làm phát sinh ra dục vọng (ham muốn, thèm khát...); dục vọng tạo điều kiện làm phát sinh ra sự bám víu; sự bám víu tạo điều kiện làm phát sinh ra quá trình của sự hình thành (processus du devenir - becoming, existence); quá trình của sự hình thành tạo điều kiện làm phát sinh ra sự sinh; sự sinh tạo điều kiện làm phát sinh ra sự hủy hoại, cái chết, ta thán, khổ nhọc, đớn đau, buồn phiền và tuyệt vọng. Đấy là cách làm phát sinh ra cả khối khổ đau ấy, (chuỗi dài liên kết và trói buộc trên đây gọi là thập nhị nhân duyên và đấy là cách trả lời cho câu hỏi của Kassapa: khổ đau phát sinh như thế nào?).

 [Thế nhưng], bởi vì vô minh hoàn toàn chấm dứt nên các tạo tác tâm thần chấm dứt; bởi vì các tạo tác tâm thần hoàn toàn chấm dứt nên tri thức chấm dứt; bởi vì tri thức hoàn toàn chấm dứt nên các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất (thân xác) chấm dứt; bởi vì các hiện tượng tâm thần và các hiện tượng vật chất hoàn toàn chấm dứt nên sáu khả năng chấm dứt (ngũ giác và tâm thức); bởi vì sáu khả năng hoàn toàn chấm dứt nên sự tiếp xúc chấm dứt; bởi vì sự tiếp xúc hoàn toàn chấm dứt nên dục vọng chấm dứt; bởi vì dục vọng hoàn toàn chấm dứt nên quá trình của sự hình thành chấm dứt; bởi vì quá trình của sự hình thành hoàn toàn chấm dứt nên sự sinh chấm dứt; bởi vì sự sinh hoàn toàn chấm dứt nên sự hủy hoại, cái chết, ta thán, khổ nhọc, đớn đau, buồn phiền và tuyệt vọng chấm dứt. Đấy là sự chấm dứt hoàn toàn của tất cả cái khối khổ đau ấy", (quá trình đảo ngược của thập nhị nhân duyên mang lại sự giác ngộ và giải thoát).

 Sau khi được nghe giảng như trên đây, người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa liền nói với Đấng Thế Tôn: "Thưa Ngài, tuyệt vời thay! Thưa Ngài, tuyệt vời thay! Thưa Ngài, quả đúng như thế, [những gì Ngài trình bày] tương tợ như dựng trở lên một vật gì đã đổ xuống, như khám phá ra những gì bị che lấp, chỉ đường cho người đi lạc, thắp lên một ngọn đèn trong bóng tối và để nghĩ rằng: "Những ai có mắt sẽ trông thấy được hình dạng", chẳng khác gì như Đấng Thế Tôn đã soi sáng giáo lý bằng nhiều phương cách khác nhau. Tôi xin được quy y Đấng Thế Tôn, Giáo lý và Tăng đoàn. Tôi cầu xin được tiếp nhận sự Thụ phong thứ yếu (dành cho một sa-di hay sa-môn) và sự Thụ phong trọng đại (dành cho một vị tỳ-kheo) dưới sự chứng nhận của Đấng Thế Tôn".

 [Đấng Thế Tôn trả lời như sau]: "Này Kassapa, nếu một người đã là tín đồ của một tôn giáo khác và muốn được Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại quy định trong Giáo lý này và sự Tu tập này, thì người ấy phải trải qua một thời gian thử thách là bốn tháng, và nếu người ấy sau khi đã trải qua thời gian thử thách bốn tháng, thì khi đó các vị tỳ kheo sẽ suy xét cẩn thận và ban lễ Thụ phong thứ yếu và trọng đại để người ấy được trở thành một người tu hành (tỳ kheo). Dầu sao thì Như Lai vẫn nhận thấy có sự khác biệt giữa các cá thể với nhau", (có nghĩa là còn tùy vào khả năng và quyết tâm của từng người, câu nói trên đây của Đức Phật có ý vừa cảnh giác vừa khuyến khích Kassapa).

 Người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa nói rằng: "Thưa Đấng Thế Tôn, nếu một người nào đó đã là một tín đồ của một tôn giáo khác nhưng nếu muốn xin được Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại trong Giáo lý này và trong sự Tu tập này, và nếu người ấy sau khi đã trải qua một thời gian thử thách bốn tháng, thì khi đó các vị tỳ kheo sẽ suy xét cẩn thận và ban lễ Thụ phong thứ yếu và trọng đại để người ấy được trở thành một người tu hành. Thưa Đấng Thế Tôn, tôi đã sẵn sàng để trải qua thời gian thử thách, dù cho thời gian ấy là bốn năm. Sau khi đã trải qua thời gian thử thách và sau bốn năm, và nếu các vị tỳ kheo không thất vọng vì tôi thì xin các vị ấy suy xét cẩn thận để Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại cho tôi".

 Và như thế ấy, người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa đã được Thụ phong thứ yếu và Thụ phong trọng đại dưới sự chứng nhận của Đấng Thế Tôn.

 Một thời gian sau khi được Thụ phong trọng đại, Ayasmanta Kassapa (có nghĩa là Vị đáng kính Kassapa - Venerable Kassapa) sống đơn độc, rút lui vào nơi cô quạnh, luôn cảnh giác, hăng say, quyết tâm, và sau đó đã nhanh chóng đạt được mục đích mà các người con của những gia đình cao quý rời bỏ thế tục để chọn cuộc sống của người tu hành hằng mong ước. Đấy là mục đích tối thượng của Phẩm hạnh tinh khiết mà Ayasmanta Kassapa đã đạt được ngay trong kiếp sống này: "Tất cả mọi sự tái sinh đều bị hủy diệt, chỉ có Phẩm hạnh tinh khiết là còn lại. Những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn gì lưu lại để phải thực hiện nữa".

 Chính như thế, Ayasmanta Kassapa đã hội nhập với các vị A-la-hán khác".

 

Vài lời lạm bàn của người dịch

 Một người tu khổ hạnh không quần áo tên là Kassapa tình cờ gặp Đức Phật đang đi khất thực trong một khu dân cư, đấy là bối cảnh của bài thuyết pháp trên đây. Có lẽ người tu khổ hạnh Kassapa đã thắc mắc từ lâu trong lòng về sự vận hành của khổ đau, cho nên khi vừa gặp được Đức Phật liền xin Ngài giải thích cho mình về sự thắc mắc ấy. Kassapa phải nài nỉ đến ba lần thì Đức Phật mới chấp nhận, vì lúc ấy Ngài đang đi khất thực không thuận tiện để bàn luận về giáo lý.

 Tuy Kassapa cho biết là thắc mắc nêu lên không có gì trọng đại, thế nhưng sự thắc mắc ấy thực sự hàm chứa những gì thật căn bản trong giáo lý Phật giáo: đó là khái niệm và sự vận hành của khổ đau. Thật vậy nếu không thấu triệt được khổ đau là gì và sự vận hành của nó trong thế giới này ra sao thì quả thật khó có thể tự cho mình là hiểu được giáo lý Phật giáo. Thật thế, bản chất sâu xa của Khổ đau (Dukkha) trong thế giới ta-bà đã được nêu lên ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật. Thế nhưng thói thường chúng ta chỉ nhìn thấy khổ đau trong thế giới này dưới một vài biểu hiện thật thổ thiển có tính cách hời hợt bên ngoài mà thôi, trái lại chúng ta có xu hướng một mặt quay lưng lại với khổ đau và một mặt luôn hướng vào những ảo giác của hạnh phúc mà chúng ta không bao giờ nắm bắt được. Tóm lại mưu cầu hạnh phúc cũng chính là một cách gián tiếp thừa nhận khổ đau đang bàng bạc trên thân xác, trong tâm thức và chung quanh chúng ta mà chúng ta không hề hay biết. Vậy khổ đau là gì?

 Theo Phật giáo khổ đau là tất cả những gì bất toại nguyện kể cả những xúc cảm dưới mọi hình thức mà tất cả chúng sinh phải chịu đựng trong cuộc sống. Những Khổ đau (Dukkha) đó đuợc chia làm ba thể loại hay ba "cấp bậc" khác nhau:

 - thể loại thứ nhất là khổ đau của khổ đau (dukkha dukkha) tượng trưng cho những khổ đau đơn giản, thô thiển và dễ nhận thấy nhất, đó là những đớn đau trên thân xác và trong tâm thức của mỗi cá thể. Nếu như có ai cảm thấy mình luôn được hạnh phúc, khỏe mạnh và giàu sang, không hề biết khổ đau là gì, thì cứ nhìn vào những người thân chung quanh đang đau ốm hoặc nghèo đói, hoặc bước ra đường để trông thấy một tai nạn lưu thông hay thấy một người điên đang múa may ca hát, hoặc vừa đi vừa mãi nhìn hai người đang đánh nhau giữa đường mà ta suýt va đầu vào một gốc cây, v.v..., thì đấy là những khổ đau của khổ đau. Ngoài ra khổ đau của khổ đau còn thể hiện dưới một hình thức khác nữa, thí dụ khi đã nhận thấy được những khổ đau như vừa kể (và cả những khổ đau của hai cấp bậc sắp được trình bày sau đây) và cố gắng tìm mọi cách vượt thoát, thì sự cố gắng vượt thoát những thứ khổ đau ấy cũng thuộc vào loại khổ đau của khổ đau.

 - thể loại thứ hai là khổ đau vì sự đổi thay (viparinama dukkha), tức là khổ đau vì bản chất vô thường của mọi hiện tượng. Tất cả mọi hiện tượng cấu hợp nhất thiết đều vô thường, và đã là vô thường thì tất là khổ đau. Thân xác và tâm thức của mình cũng như của tất cả các chúng sinh khác đều là những thứ cấu hợp, và vô thường thì không buông tha bất cứ một hiện tượng cấu hợp nào. Có ai lại không ước mong được trẻ đẹp và khoẻ mạnh mãi mãi, tâm thức luôn được hân hoan, những người thân thuộc luôn chân thật và trung thành với mình, các vật sở hữu mà mình trân quý không bao giờ bị hư hỏng, lỗi thời hay bị mất cắp và môi trường sống chung quanh luôn thuận lợi? Thế nhưng tất cả những hiện tượng ấy đều vô thường và bất định. Sự kiện cảm nhận được tính cách vô thường và phù du ấy gọi là khổ đau vì sự đổi thay.

 - thể loại thứ ba gọi là khổ đau của sự hình thành (sankhara dukkha), tức là khổ đau của sự hiện hữu. Những khổ đau này mang tính cách rất sâu xa, bao quát và tinh tế do đó rất khó nhận biết, đó là những thứ khổ đau kín đáo và thường xuyên, phát sinh từ sự bám víu vào ngũ uẩn tức năm thứ cấu hợp của sự hình thành. Tất cả các thể dạng "hạnh phúc" phát sinh từ giác cảm - ngũ giác và tâm thần - kể cả thể dạng lắng dịu hay lâng lâng cảm nhận được qua phép thiền định gọi là thiền na (dhyana) cũng đều là khổ đau (dukkha). Vì thế cũng xin nhắc thêm là chữ khổ đau không hàm chứa đầy đủ ý nghĩa của chữ dukkha trong giáo lý nhà Phật, vì khổ đau theo ý nghĩa thông thường chỉ phản ảnh được ý nghĩa của khổ đau trong hai thể loại thứ nhất và thứ hai được trình bày trên đây, nhưng không bao hàm được ý nghĩa của khổ đau trong thể loại thứ ba tức là khổ đau của sự hình thành (sankhara dukkha), bởi vì thể loại khổ đau này bao gồm cả những giác cảm thích thú mà ta thường gọi là "hạnh phúc". Do đó một số các học giả Phật giáo Tây phương dùng thẳng tiếng Phạn dukkha và không dịch chữ này là khổ đau (souffrance). 

 Kinh Rahogata-sutta (Kinh về sự ẩn cư trong Tương Ưng Bộ kinh - Samyutta Nikaya, SN 16.11) ghi lại trường hợp một đệ tử nêu lên thắc mắc là nếu cho rằng năm thứ cấu hợp (tức ngũ uẫn - skanda) là khổ đau thì sẽ mâu thuẫn với cách phân loại các giác cảm (vedana) thành ba thể loại là thích thú, khó chịu và trung hòa. Đức Phật nêu lên nguyên tắc vô thường và sự tạo tác lệ thuộc (tức lý duyên khởi hay sự tạo tác do điều kiện mà có) để chứng minh cho người người đệ tử thấy rằng "tất cả những gì thuộc các thể loại giác cảm đều thuộc vào lãnh vực của khổ đau", tức có nghĩa là những cảm nhận hạnh phúc cũng là những biểu hiện kín đáo của khổ đau, (cũng xin nhắc thêm là giác cảm gồm có cả tư duy và mọi thứ xúc cảm trong tâm thức).

 Đối với những ai không thích cách diễn đạt bao quát và trừu tượng trên đây, thiết nghĩ cũng nên nêu lên một vài thí dụ cụ thể, chẳng hạn như một số biểu tượng của hạnh phúc như chiếc nhẫn cưới và những niềm hạnh phúc trong lòng cô dâu chú rể, hay những ngọn nến cắm trên chiếc bánh sinh nhật, hoặc tấm gương phản chiếu một thanh niên đang ngắm nhìn chân dụng của mình, hay một thiếu nữ đang thoa son điểm phấn..., thì phía sau của tất cả những thứ ấy đều ẩn nấp những khổ đau thật mênh mông kín đáo, và những khổ đau ấy chính là những thứ khổ đau thuộc vào loại khổ đau của sự hình thành, tức là khổ đau phát sinh từ sự hiện hữu của chúng ta trong thế giới này.

 Xin trở lại với người tu khổ hạnh không quần áo Kassapa. Người này có thể đã hiểu được khổ đau trong thế gian này là gì, do đó đã từ bỏ tất cả những giá trị quy ước của thế tục kể cả quần áo trên người để đi tìm sự giải thoát, thế nhưng vẫn thắc mắc là những khổ đau ấy có phải chính là do mình tạo ra cho mình hay do người khác tạo ra cho mình, hay chỉ là những hiện tượng ngẫu nhiên. Thế rồi một hôm Kassapa gặp được Đức Phật khi Ngài đang đi khất thực trong một khu dân cư. Kassapa liền nhân cơ hội ấy xin Đức Phật giải thích những thắc mắc đang ray rứt trong lòng mình. Mặc dù đang ở trong một bối cảnh không thích nghi cho việc giảng Pháp, thế nhưng trước sự thành tâm muốn hiểu biết của một người tu hành khổ hạnh, Đức Phật cũng đã trả lời các thắc mắc của người này dưới hai khía cạnh khác nhau:

 - trước hết là trả lời trực tiếp câu hỏi có phải khổ đau là do chính mình hay do người khác tạo ra cho mình.

 - sau đó là giải thích sự vận hành của khổ đau trên một bình diện bao quát hơn, vượt lên trên khuôn khổ những câu hỏi đã được nêu lên.

 Vậy đối với câu hỏi khổ đau là do chính mình tạo ra cho mình hay là do người khác tạo ra cho mình, thì trong trường hợp nếu Đức Phật trả lời rằng một cá thể tự tạo ra khổ đau cho mình, thì cách trả lời ấy có nghĩa là cá thể mang tính cách bất biến hoặc có một cái gì đó trường tồn trong một cá thể. Thí dụ một cá thể thực thi một số hành động nào đó tạo ra nguyên nhân mang lại khổ đau và cũng chính cá thể ấy "đầu thai" trở lại để nhận lãnh hậu quả phát sinh từ những hành động ấy, thì đấy là một cách gián tiếp chấp nhận chủ nghĩa trường tồn (còn gọi là thường hằng hay vĩnh hằng - eternalism, tiếng Pali Sassatavada) hay chủ nghĩa hữu ngã (tiếng Phạn Atman, tiếng Pali Atta). Ngược lại, trong trường hợp nếu Đức Phật trả lời là một cá thể nhận lãnh khổ đau do một cá thể khác tạo ra, thì lại rơi vào chủ nghĩa đoạn diệt (hủy diệt, tận diệt hay hư vô - innihilism, nihilism - tiếng Pali Uccedavada). Như thế tức là gián tiếp chấp nhận chủ nghĩa duy vật (materialism). Thí dụ một cá thể trong hiện tại đang phải gánh chịu khổ đau là do một cá thể khác trong kiếp trước đã thực thi những hành động tạo ra nguyên nhân mang lại những khổ đau ấy.

 Trong bản kinh Acela-sutta trên đây cũng như trong rất nhiều bản kinh khác Đức Phật luôn cho biết là Ngài giữ con đường ở giữa, gọi là Trung Đạo. Ngài nhắc nhở các đệ tử không được rơi vào hai cực đoan là chủ nghĩa hư vô và chủ nghĩa trường tồn, vì đấy là những gì sai lầm và vô cùng nguy hại. Đối với con đường Trung Đạo đứng giữa hai thái cực thì cá thể đơn thuần chỉ là một dòng chảy hay một luồng luân chuyển (tiếng Pali santati), và khi đã là một dòng chảy thì tất nhiên sẽ tượng trưng cho một quá khứ, một hiện tại và một tương lai, cách giải thích đó hợp lý (lôgic) hơn so với chủ nghĩa trường tồn (không chủ trương có quá khứ) và chủ nghĩa đoạn diệt (không chủ trương có tương lai). Cũng xin nhắc thêm là Đức Đạt-Lai Lạt-Ma gọi dòng chảy đó là dòng tiếp nối liên tục (tiếng La-tinh continuum) của tri thức (consciousness). Cá thể chỉ là một danh xưng mang tính cách quy ước dùng để gán cho dòng tiếp nối liên tục đó. Khái niệm về sự liên tục trên đây là một yếu tố then chốt góp phần trong việc giải thích hiện tượng tái sinh và chu kỳ luân hồi của một cá thể, (có thể xem thêm chủ đề này trong bài viết "Khái niệm về nghiệp trong Phật giáo" của Hoang Phong trên các mạng Thư Viện Hoa Sen, Quảng Đức,...). 

 Ngoài cách trả lời trực tiếp các thắc mắc của Kassapa như trên đây, Đức Phật còn giải thích sự vận hành của khổ đau một cách bao quát và toàn diện hơn. Thật vậy, Kassapa nêu lên các thắc mắc của mình về sự vận hành của khổ đau trong một cấp bậc khá "thấp", trực tiếp liên hệ đến một số thể dạng cá biệt và chi tiết nào đó, và đấy cũng là lý do cho thấy Kassapa không thể nắm vững được các nguyên nhân và các tác động sâu kín và phổ quát của khổ đau trong thế giới ta-bà. Một cách cụ thể xin nêu lên một vài thí dụ như sau:

 - khi bước ra đường ta chợt nhìn thấy hai người đang đánh nhau, vừa đi ta vừa quay đầu nhìn lại khiến ta va đầu vào một gốc cây (khổ đau của khổ đau - tức khổ đau phát sinh từ giác cảm), để rồi tự hỏi có phải là ta tự làm cho ta đau đớn, hay hai người đánh nhau làm cho ta phải va đầu vào gốc cây?

 - nếu có một tế nào đó trong số hàng tỉ tế bào trong cơ thể "đột biến" (mutation) và trở thành một tế bào ung thư (khổ đau vì sự đổi thay - tức vô thường), thì đấy có phải là một thứ khổ đau phát sinh một cách ngẫu nhiên hay không, hay là do người khác hay một thứ gì khác tạo ra cho mình?

 - một thanh niên nhìn vào gương để hãnh diện với vẻ đẹp trai của mình, hay một thiếu nữ nhìn vào gương vừa nhoẻn miệng cười vừa hơi nghiêng đầu một tí để làm nổi bật vẻ duyên dáng của mình (khổ đau của sự hình thành - tức khổ đau của sự hiện hữu và bám víu vào ngũ uẩn), thì vẻ đẹp trai ấy và vẻ duyên dáng ấy có phải là do họ tạo ra cho họ, hay đấy chỉ là những sự "may mắn" ngẫu nhiên, và cũng nên hiểu thêm là cả hai trường hợp đều là những biểu hiện của "khổ đau" thuộc vào thể loại khổ đau của sự hình thành.

 Khi đã lạc vào chi tiết như trên đây thì sẽ khó thực hiện được một tầm nhìn bao quát. Do đó Đức Phật không trả lời trực tiếp từng thắc mắc của Kassapa mà chỉ trả lời là "Khổ đau không phát sinh giống như thế". Đồng thời Ngài nêu lên nguyên tắc vận hành chung của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ gọi là sự tương liên, tương kết và tương tạo của mọi hiện tượng (interdependence) còn gọi là sự tạo tác do điều kiện mà cólý duyên khởi. Có lẽ chính vì thế mà Môhan Wijayaratna đã dịch tựa của bản kinh này là "Sự tạo tác do điều kiện" (Conditioned Co-production) để tránh chữ Acela có nghĩa là trần truồng không quần áo (?). (conditioning co-production) hay

 Dựa trên nguyên tắc vận hành đó của tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ Đức Phật chọn ra mười hai biến cố liên kết với nhau mà kinh sách Hán ngữ gọi là thập nhị nhân duyên để giải thích cho Kassapa về sự vận hành của khổ đau, tức đấy là chu kỳ của sự hiện hữu hay là vòng luân hồi trong thế giới này. Hơn thế nữa, Đức Phật còn vượt xa hơn các câu hỏi của Kassapa bằng cách giải thích thêm về quá trình đảo ngược của thập nhị nhân duyên để giải thích phương cách làm cho khổ đau phải chấm dứt. Bản kinh tuy thật ngắn và được thuyết giảng trong bối cảnh mà mọi người đang khất thực, thế nhưng thật vô cùng sâu sắc và trọn vẹn.

 Trọn vẹn cả đến sự giác ngộ và quyết tâm tu tập của một người tu khổ hạnh không quần áo hằng mưu cầu tìm kiếm sự thật. Sau khi được Đức Phật giải đáp những thắc mắc cho mình, Kassapa "rút lui vào nơi cô quạnh, luôn giữ sự cảnh giác và hăng say tu tập" giúp cho mình nhanh chóng đạt được thể dạng A-la-hán. Đấy là phần kết thúc của bản kinh và cũng là một bài học cho mỗi chúng ta. Thật vậy, khi đọc một số bài viết hay khi nghe một số bài giảng tán dương Phật Pháp cũng có thể khiến cho chúng ta cảm thấy hãnh diện hay thích thú trong chốc lát, hoặc khi nghiên cứu một số kinh sách hay các tập luận giải về giáo lý cũng có thể mang lại cho chúng ta một số hiểu biết nào đó, thế nhưng sau khi đọc xong hay nghe xong thì đâu lại hoàn đấy, chúng ta quay trở lại với những sinh hoạt hằng ngày để tiếp tục đắm mình vào sự vận hành của guồng máy khổ đau.

 Phật giáo là một tôn giáo tích cực, đòi hỏi sự can đảm và lòng quyết tâm. Chúng ta có đủ sức bắt chước một người tu khổ hạnh trần truồng từ bỏ những giá trị của thế tục như Ayasmanta Kassapa hay không, hay là chúng ta chỉ biết lo nghĩ đến việc mua sắm những quần áo đẹp? Hãy thắc mắc và ray rứt như Ayasmanta Kassapa về những vấn đề trọng đại hơn, Đạo Pháp sẽ giải tỏa cho chúng ta những thắc mắc và những ray rứt ấy. Hãy quyết tâm và hăng say tu tập như Ayasmanta Kassapa, sự Giác ngộ sẽ mở rộng cửa để chờ đón chúng ta.

ĐỨC PHẬT THUYẾT GIẢNG VỀ VÔ NGÃ
Kinh Anattalakkhana-sutta và Kinh Samyuktagamasutra

Vô Ngã là một khái niệm chủ yếu của Phật giáo và cũng là một trong những khái niệm khó nắm bắt nhất. Đức Phật không hề chủ trương và cũng không tham gia tranh biện về các vấn đề siêu hình, thế nhưng ngay sau bài thuyết giảng đầu tiên làm nòng cốt cho toàn bộ Đạo Pháp là Tứ Diệu Đế, Ngài đã không do dự chút nào khi nêu lên khái niệm về Vô Ngã.

Thật vậy, lúc đó ngoài năm người đệ tử đầu tiên vừa được nghe giảng về Tứ Diệu Đế thì chưa có ai biết đến Đạo Pháp của Đức Phật là gì. Trong bối cảnh tín ngưỡng thời bấy giờ hầu hết mọi người đều tin vào một thứ linh hồn trường tồn và bất biến (jiva, atman...) hiện hữu bên trong mỗi cá thể và một thứ đại linh hồn hay cái Ngã Tối Thượng (Paramatman, Brahma...) bên ngoài nhân dạng con người và thuộc một nơi nào đó trong vũ trụ.

Đối với Đức Phật thì tất cả mọi hiện tượng đều không ngừng hình thành, không có một ngoại lệ nào cả, vì thế chúng không hàm chứa bất cứ một thực thể cố định hay bất biến nào. Đức Phật chỉ chấp nhận một cái tôi như là một ảo giác do tâm thức tạo dựng, cái tôi đó chỉ có giá trị trên phương diện quy ước. Ngài giảng rằng sự nắm bắt một cái tôi hay cái ngã chỉ là cách đồng hóa những cấu hợp (ngũ uẩn) tạm thời tạo ra một cá thể, như là một "cái tôi" vững bền để bám víu vào đấy. Sự bám víu đó chính là nguyên nhân mang lại khổ đau và buộc chặt chúng ta trong cõi luân hồi.

Đức Phật thuyết giảng về vô ngã trong rất nhiều bản kinh khác nhau. Thế nhưng tựu trung thì có hai cách giảng chính : cách thứ nhất là đả phá các ý nghĩ sai lầm cho rằng "cái ấy của Tôi", "Tôi là cái ấy", "cái ấy là cái Ngã của Tôi"..., cách thứ hai là bác bỏ ý nghĩ cho rằng một cấu hợp hay một tổng thể gồm nhiều cấu hợp là cái Ngã. Đối với cách giảng thứ nhất Đức Phật liên kết vô ngã với khái niệm về năm thứ cấu hợp tạo ra cá thể con người gọi là ngũ uẩn ; khi thuyết giảng theo cách thứ hai thì Đức Phật liên kết vô ngã với khái niệm về mười hai mối dây kết nối gọi là thập nhị nhân duyên.

Một cách tổng quát, khi muốn tìm hiểu một khái niệm nào đó thì nên đặt nó vào bối cảnh toàn bộ của Đạo Pháp, đấy là cách giúp chúng ta nhìn thấy chính xác hơn vị trí và vai trò của khái niệm ấy liên hệ với các khái niệm khác trong giáo lý như thế nào. Hơn nữa một tầm nhìn bao quát sẽ giúp chúng ta quán nhận được toàn bộ các khái niệm trong Đạo Pháp một cách mạch lạc hơn, và khi đã quen với cách quán nhận ấy thì sự hiểu biết cũng sẽ trở nên trực tiếp hơn, không cần mỗi lần phải nhờ đến lý luận và sự phân tích. Thật vậy một sự hiểu biết rời rạc có thể mang lại sự hoang mang, hời hợt hoặc gượng ép.

Sau đây là hai bản Kinh ngắn ghi lại những lời thuyết giảng của Đức Phật tiêu biểu cho hai cách thuyết giảng trên đây.

I- Kinh Anattalakkhana-sutta
(Kinh Vô Ngã Tướng)


(Bản Việt dịch dưới đây dựa vào bản tiếng Pháp do Môhan Wijayaratna dịch từ tiếng Pali (Sermons du Bouddha, Cerf, 1988, tr.123-126). Bản gốc trong Tương Ưng Bộ Kinh - Samyutta-nikaya, ed. PTS, 1888-1902, III, 66-67 ; Vinayapitaka, ed. PTS, 1879-1883, I, 13-14). Bản kinh này được xem là bản Kinh thứ hai sau Tứ Diệu Đế, được Đức Phật thuyết giảng cho những đệ tử đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như.

"Tôi từng được nghe như thế này.

Một lần Đấng Thế Tôn ngụ tại vườn Lộc Uyển (Mrgadava), trong khu rừng Tiên Uyển (Isipatana), gần thành Ba-la-nại (Benares) [...]. Đấng Thế Tôn cất lời và nói với năm vị tỳ kheo như sau:

"Này các tỳ kheo, hình tướng (thân xác) không phải là cái Ngã (theo định nghĩa thông thường thì cái ngã hay atman có thể hiểu như là 'linh hồn'). Nếu như hình tướng đúng thật là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì hình tướng đâu phải gánh chịu bệnh tật (cái ngã được định nghĩa như một thứ gì bất biến và trường tồn, thế nhưng thân xác phải gánh chịu bệnh tật, thân xác vì thế không phải là cái ngã), và đối với thân xác thì người ta có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được" (nếu thân xác đúng là cái ngã thì nó không thể biến đổi để trở thành khác hơn). Trong khi đó, bởi vì thân xác không phải là cái Ngã [cho nên] thân xác phải gánh chịu bệnh tật (vô thường) và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thân xác của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".

"Này các tỳ kheo, giác cảm không phải là cái Ngã. Nếu như giác cảm đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì giác cảm đâu có phải gánh chịu bệnh tật (tức là các giác cảm làm phát sinh sự đau đớn, thích thú hay trung hòa), và [như thế] đối với giác cảm người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như là thế khác được". Trong khi đó, bởi vì giác cảm không phải là cái Ngã [cho nên] giác cảm phải gánh chịu bệnh tật và người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì giác cảm của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".

"Này các tỳ kheo, sự nhận thức không phải là cái Ngã. Nếu như sự nhận thức, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì sự nhận thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (sự lầm lẫn), và [như thế] đối với sự nhận thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì sự nhận thức không phải là cái Ngã [cho nên] sự nhận thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với sự nhận thức thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì sự nhận thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".

"Này các tỳ kheo, thói quen thường nhật không phải là cái Ngã. Nếu như thói quen thường nhật, này các tỳ kheo, đúng là cái Ngã thì thói quen thường nhật đâu phải gánh chịu mọi thứ bệnh tật (tức là sự bám víu biểu hiện của vô minh và sai lầm), và [như thế] đối với thói quen thường nhật người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì thói quen thường nhật không phải là cái Ngã [cho nên] thói quen thường nhật phải gánh chịu bệnh tật, và đối với thói quen thường nhật thì người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì thói quen thường nhật của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".

"Này các tỳ kheo, tri thức (consciousness) không phải là cái Ngã. Nếu như tri thức đúng là cái Ngã, này các tỳ kheo, thì tri thức đâu có phải gánh chịu bệnh tật (những sự diễn đạt sai lầm), và [như thế] đối với tri thức người ta sẽ có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể như thế khác được". Trong khi đó, bởi vì tri thức không phải là cái Ngã [cho nên] tri thức phải gánh chịu bệnh tật và đối với tri thức người ta sẽ không thể nào có thể bảo rằng : "Đối với tôi thì tri thức của tôi [chỉ có thể] như thế này mà không thể là như thế khác được".

- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Hình tướng trường tồn hay vô thường?

- Bạch Thế tôn, hình tướng là vô thường.

- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay hạnh phúc?

- Bạch Thế tôn, là những gì khổ đau.

- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?

- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Giác cảm trường tồn hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn, giác cảm là vô thường.

- Nếu một sự vật là vô thường thì nó là những gì khổ đau hay hạnh phúc?

- Bạch Thế Tôn, là những gì khổ đau.

- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?

- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Sự nhận thức trường tồn hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn, sự nhận thức là vô thường.

- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc?

- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.

- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?

- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Thói quen thường nhật trường tồn hay vô thường?

- Bạch Thế Tôn, thói quen thường nhật là vô thường.

- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?

- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.

- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?

- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

- Này, các tỳ kheo nghĩ thế nào? Tri thức trường tồn hay vô thường ?

- Bạch Thế Tôn, tri thức là vô thường.

- Nếu một sự vật là vô thường thì đấy là khổ đau hay hạnh phúc ?

- Bạch Thế Tôn, đấy là khổ đau.

- Vậy thì, nếu những gì vô thường là khổ đau, phải gánh chịu sự biến đổi, thì đối với những thứ ấy người ta có thể bảo rằng : "Đấy là cái của tôi, đấy chính là tôi, đấy là cái Ngã của tôi" hay không ?

- Bạch Thế Tôn, nhất định là không.

"Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là thân xác, dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay bên ngoài, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".

"Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ những gì là giác cảm, dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, thuộc nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".

"Tóm lại, này các tỳ kheo, đối với bất cứ gì thuộc vào sự nhận thức, dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".

"Tóm lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là thói quen thường nhật, dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".

"Tóm lại, này các tỳ kheo, bất cứ những gì là tri thức, dù thuộc vào quá khứ, tương lai hay hiện tại, nội tâm hay ngoại cảnh, thô thiển hay tinh tế, tầm thường hay tuyệt diệu, cách xa hay bên cạnh, thì phải nhìn chúng đúng như thế bằng cái trí tuệ không sai lầm để tự nhủ rằng : "Đấy không phải là của tôi, tôi không phải là các thứ ấy, chúng không phải là cái Ngã của tôi".

"Này các tỳ kheo, nếu biết nhìn mọi sự vật bằng cách như thế thì một người đệ tử hiểu biết sẽ không còn bám víu vào thân xác, không con bám víu vào giác cảm, không còn bám víu vào sự nhận thức, không còn bám víu vào thói quen thường nhật, không còn bám víu vào tri thức. Khi loại bỏ được chúng thì sẽ không còn thèm khát nữa. Khi nào không còn bám víu nữa thì người đệ tử ấy cũng sẽ tự giải thoát cho mình khỏi mọi dục vọng. Khi đã tự giải thoát khỏi mọi dục vọng thì người đệ tử ấy cũng sẽ chợt nhận ra rằng : "[Thế ra] sự giải thoát cũng chính là như thế đấy !", và người đệ tử ấy cũng sẽ hiểu được là : "Tất cả mọi sự tái sinh đã bị hủy diệt, chỉ có Con đường Đạo hạnh tinh khiết là tồn tại, những gì phải chấm dứt đã chấm dứt, không còn bất cứ gì lưu lại để chờ đợi được thực hiện, không còn lại gì nữa để mà hình thành".

Đấng Thế Tôn thuyết giảng như trên đây. Năm vị tỳ kheo đều thỏa dạ và hân hoan đón nhận những lời giáo huấn của Ngài. Hơn thế nữa ngay trong khi mà họ còn đang nghe giảng thì mọi ô nhiễm trong tâm thức đã lần lượt được tẩy uế. Vào thời điểm ấy hiển hiện lên trong thế gian này sáu vị A-la-hán.

II- Trích trong Samyuktagamasutra
(Tương Ưng Bộ kinh)


(Bản Việt dịch dưới đây dựa vào bản tiếng Pháp do Jean Eracle dịch từ tiếng Hán (Paroles du Bouddha, tirées de la tradition primitive, Ed. du Seuil, coll. Sagesse, 1991, tr. 142-144). Bản kinh gốc trong Đại Tạng kinh Nhật Bản (Taishô shinshu daizôkyô, ấn bản Taishô Issaikyô Kankô Kai, Tokyô, 1924-1932, II, 100,195, tr. 444c)

"Tôi từng được nghe như thế này.

Một lần Đức Phật ngụ tại thành Vương Xá (Râjagriha), trên đỉnh Linh Thứu (Grdhrakuta) trong khu vườn tre Ka-lan-đà (Karanda)

Có một người tu tập Bà-la-môn tên là Bạt-sa (Vasta) tìm đến nơi Đức Phật đang nghỉ ngơi. Sau khi thốt lên những lời thăm hỏi Đức Phật [theo nghi thức lễ phép] liền ngồi sang một bên.

Anh ta cất lời hỏi Đức Phật như sau :

- "Thưa Ngài Cồ-đàm ! Trong tất cả chúng sinh có cái ngã hay không ?"

Đức Phật giữ yên lặng và không trả lời.

Bạt-sa lại hỏi :

- "Vậy thì không có cái ngã ?"

Thêm một lần nữa Đức Phật không trả lời gì cả.

Và rồi Bạt-sa tự nghĩ thầm như thế này :

- "Ta đã hỏi nhà tu hành Cồ-đàm nhiều lần về chủ đề này, thế nhưng Vị ấy vẫn giữ yên lặng và không biết phải trả lời thế nào".

Đang lúc ấy, người hầu cận là A-nan-đà đang bên cạnh đấng Như Lai để quạt hầu. A-nan-đà nghe được những lời ấy bèn nói với Đức Phật như sau :

- "Thưa Đấng Thế Tôn ! Vì sao Đấng Thế Tôn lại không trả lời câu hỏi của Vatsa ? Nếu Thế Tôn không trả lời thì hắn sẽ nói rằng : "Ta hỏi Đấng Như Lai, thế nhưng Đấng Như Lai không biết phải trả lời thế nào ?", và như thế chỉ làm cho hắn vững tin hơn vào những quan điểm sai lầm của hắn mà thôi ?

Đức Phật nói với A-nan-đà như thế này :

- "Trước đây hắn đã từng nêu lên câu hỏi như thế này : "Tất cả mọi hiện tượng có cái ngã hay không?", và [hỏi] như thế không phải [là cách] làm cho hắn vững tin vào những quan điểm sai lầm của hắn hay sao ?

Bởi vì không có cái ngã, [cho nên] nếu Ta trả lời câu hỏi của hắn, Ta sẽ đi ngược lại với nguyên tắc của Con Đường.

Tại sao lại như thế ?

Bởi vì không có cái ngã trong tất cả mọi hiện tượng, vậy còn có cái ngã nào để mà Ta có thể trả lời cho hắn ? Nếu làm như thế, Ta chỉ củng cố thêm sự hoang mang của hắn từ trước đến nay.

Thêm một lần nữa, này A-nan-đà, nếu Ta bảo rằng có cái ngã, ta sẽ rơi vào khái niệm trường tồn ; và nếu như Ta bảo rằng không có cái ngã, Ta sẽ rơi vào khái niệm hư vô.

Khi Như Lai thuyết giảng Đạo Pháp, thì Như Lai gạt bỏ cả hai thái cực ấy và giữ đúng theo con đường ở giữa. Bởi vì tất cả mọi hiện tượng đều biến mất, chúng không lâu bền, thế nhưng lại có sự tiếp nối, [cho nên] chúng không bị hủy diệt.

[Vậy thì] chúng không lâu bền, [thế nhưng] cũng không bị hủy diệt. Chẳng qua chính là do nguyên nhân mà từ cái này có cái kia, chính bởi vì cái này sinh ra mà cái kia sinh ra ; và chính vì cái này không sinh ra mà cái kia cũng không sinh ra.

Do đó, chính vì vô minh mà có sự tạo tác [của nghiệp], vì nguyên nhân của sự tạo tác [của nghiệp] mà có tri thức, vì nguyên nhân tri thức nên có tổng thể thân-xác-tâm-thần, vì nguyên nhân thân-xác-tâm-thần mà có sáu cơ sở [của sáu chức năng] (gồm năm chức năng giác cảm và chức năng tâm thần), vì nguyên nhân sáu cơ sở [của sáu chức năng] nên có sự tiếp xúc ; vì nguyên nhân tiếp xúc nên có giác cảm ; vì nguyên nhân giác cảm nên có sự thèm khát ; vì nguyên nhân thèm khát nên có sự bám víu ; vì nguyên nhân vám víu nên có sự hình thành ; vì nguyên nhân hình thành nên có sự sinh ; vì nguyên nhân của sự sinh nên có già nua và cái chết, và cả sự lo buồn, khổ nhọc, đớn đau, hối tiếc và cả một khối lớn khổ đau.

[Do đó] khi nguyên nhân chấm dứt, hậu quả chấm dứt, [có nghĩa là] khi vô minh chấm dứt, sự tạo tác [của nghiệp] chấm dứt ; khi sự tạo tác [của nghiệp] chấm dứt, tri thức chấm dứt ; khi tri thức chấm dứt, tổng thể thân-xác-tâm-thần chấm dứt; khi tổng thể thân-xác-tâm-thần chấm dứt, sáu cơ sở [của sáu chức năng] chấm dứt; khi sáu cơ sở [của sáu chức năng] chấm dứt, sự tiếp xúc chấm dứt ; khi sự tiếp xúc chấm dứt, giác cảm chấm dứt; khi giác cảm chấm dứt, sự thèm khát chấm dứt ; khi sự thèm khát chấm dứt, sự bám víu chấm dứt ; khi sự bám víu chấm dứt, sự hình thành chấm dứt ; khi sự hình thành chấm dứt, sự sinh chấm dứt; khi sự sinh chấm dứt, già nua và cái chết chấm dứt kể cả những lo buồn, khổ nhọc, đớn đau, hối tiếc, và cả một khối lớn khổ đau".

Sau khi Đức Phật thuyết giảng những điều ấy, các tỳ kheo được nghe đều tiếp nhận những lời giảng ấy với sự hân hoan và cùng nhau mang ra thực hành".

CHÁNH NGỮ VÀ KHÁI NIỆM VỀ BA CỬA NGÕ

Có lẽ người đọc cũng hơi ngạc nhiên với một chủ đề xưa như trái đất. Không biết đã có bao nhiêu băng đĩa CD, sách vở, bài viết, bài giảng về chủ đề Chánh ngữ. Tuy nhiên dù đã thuộc lòng hay đã nghe giảng đến nhàm tai, có bao giờ ta tự hỏi đã áp dụng chánh ngữ được bao nhiêu lần trong cuộc sống của mình và có khi nào ta tìm hiểu xem vai trò của chánh ngữ nằm ở đâu không trong cái xã hội tân tiến ngày nay ?
Dầu chẳng có gì mới lạ trong Đạo Pháp, tuy nhiên có lẽ chúng ta cũng nên bỏ ra chút thì giờ để cùng nhau tìm hiểu xem chánh ngữ là gì. Đến chùa nghe giảng bùi tai trong chốc lát, để rồi sau đó thì đâu lại vào đấy, ta lại tiếp tục giao tiếp với những người chung quanh bằng ngôn từ thường nhật, xã hội vẫn tiếp tục áp đặt cho ta những công thức và quy ước có sẵn về cách giao tiếp và ta chỉ cần đem ra mà sử dụng. 

Thật ra thì ta cũng chẳng làm gì khác hơn được. Giáo dục và kinh nghiệm bản thân đã dạy ta như thế thì ta cứ phát ngôn như thế. Cho đến khi nào ta chưa ý thức được và nhìn thấy một cách sâu xa ảnh hưởng và tác động của ngôn từ đối với bản thân mình và đối với tập thể xã hội thì khi đó ta sẽ vẫn còn tiếp tục phát ngôn một cách rập khuôn như thế.

Mỗi lần đọc một bài viết về chủ đề chánh ngữ hay được nghe giảng về chánh ngữ thì ta tự động liên tưởng đến lời ăn tiếng nói mà ta phải phát biểu. Tuy nhiên trong thế giới này, mấy khi ta có dịp để nói lên một lời chánh ngữ? Trong thế giới của chúng ta tiếng nói đôi khi chỉ là thứ yếu, một lá phiếu thì cũng là cách bảo ta hãy câm miệng đi. Hô hào thì đã có người hô, ta chỉ cần đưa thẳng cánh tay lên để tán đồng là đủ.

Mặt khác, gần như tất cả các băng đĩa, bài viết, bài giảng... hầu như chỉ nêu lên một chiều, tức là cách dạy ta phải phát ngôn như thế nào, nhưng tuyệt nhiên không hề dạy ta phải nghe như thế nào về cách phát ngôn của người khác. Họ có nói đúng theo chánh ngữ hay không ? Hơn nữa trong thế giới của chúng ta đâu phải chỉ có lời nói mà thôi. Báo chí, sách vở, phim ảnh, truyền hình, tranh vẽ, ca nhạc, băng giảng, quảng cáo, loa phóng thanh và các phương tiện truyền thông tân tiến khác, tất cả luôn bủa vây và không tha chúng ta một giây phút nào cả. 

Bài viết này cố gắng mở ra một tầm nhìn bao quát để suy tư và tìm hiểu về chánh ngữ và mỗi người sau đó tự tìm lấy cho mình một lối đi trong cái bối cảnh thật náo động của thế giới này. 

Định nghĩa về chánh ngữ

Chánh ngữ là cách tu tập được xếp vào hàng thứ ba của bát chánh đạo. Nói một cách tổng quát thì có ba phép tu tập : tu giới (shila), tu định (samatha) và tu tuệ (prajna), chánh ngữ thuộc vào lãnh vực tu giới. Tương Ưng Bộ Kinh định nghĩa chánh ngữ như sau : «Chánh ngữ là từ bỏ nói láo, từ bỏ nói hai lưỡi, từ bỏ nói lời độc ác, từ bỏ nói lời phù phiếm ». Nếu như không nói láo, không nói hai lưỡi, không nói lời độc ác, không nói lời phù phiếm thì tất nhiên là phải nói ngay thật, trung thực, ôn hòa và lợi ích. 

Định nghĩa có vẻ đơn giản nhưng áp dụng thì khó. Lên chùa thì Thầy giảng ta nghe, mấy khi Thầy nghe ta giảng. Ra phố mua sắm, thì người bán nói ta nghe, họ có nói chánh ngữ hay không thì cũng khó biết được. Gặp bạn bè thì lựa lời mà nói cho đẹp lòng nhau, nói chánh ngữ lôi thôi đôi khi có thể mất cả bạn bè. Nơi làm việc thì xếp nói ta nghe, mấy khi ta có dịp để nói chánh ngữ cho xếp nghe. Về nhà thì vợ con nói ta nghe, mấy khi vợ con nghe ta nói. Vì thế có muốn áp dụng chánh ngữ để «được một chút phước đức» dành cho kiếp sau cũng không mấy khi tìm được dịp. 

Tóm lại ngôn từ mà ta sử dụng hàng ngày là một loại ngôn từ công thức và quy ước, biểu hiện của vô minh. Đấy là loại ngôn từ mà ta tự động chấp nhận để giúp ta giao tiếp với những người chung quanh trong thế giới ta bà, và đấy cũng là cách kết nối vô minh của từng cá thể với nhau để tạo thêm vướng mắc.

Vì vậy đối với một cá thể con người, ngôn từ giữ một vị trí và chức năng như thế nào ? Sau đây là phần trình bày sơ lược về khái niệm ba cửa ngõ của một cá thể và từ đó sẽ xác định vị trí và vai trò của chánh ngữ hay ngôn từ nói chung.

Ba cửa ngõ là gì

Kinh sách gốc Hán ít quan tâm đến khái niệm về ba cửa ngõ, trái lại thì Kim cương thừa chú trọng nhiều hơn đến khái niệm này. Tuy nhiên phần trình bày sau đây chỉ giới hạn trong việc định nghĩa căn bản về ba cửa ngõ để tìm hiểu vị trí, vai trò và sự vận hành của ngôn từ, nhưng không đi sâu vào phương pháp luyện tập của Kim cương thừa. Vậy ba cửa ngõ là gì ?

Mỗi cá thể con người có ba cửa ngõ (tridvara) : thân xác (kaya), ngôn từ (vak) và tâm thức (citta). Đó là ba thành phần hay ba « trung tâm » vận hành riêng rẽ và đồng thời cũng tương liên và phối hợp với nhau để tạo ra một cá thể trong hai cõi dục giới và sắc giới. Người ta vẫn thường nói đến ba yếu tố tạo nghiệp là thân, khẩu, ý, tuy nhiên cũng cần hiểu là ba yếu tố ấy cũng là ba cơ sở cần thiết giúp thực hiện việc tu tập. Sau đây là định nghĩa về ba cửa ngõ : 

- Thân xác : chỉ định cấu trúc vật chất của một cá thể, cấu trúc đó được tạo thành bởi năm cấu hợp thô thiển gọi là ngũ uẩn. Thân xác tượng trưng cho ranh giới phân cách giữa một cá thể và thế giới chung quanh. Sự phân chia đó có tính cách chủ quan, vì trên thực tế một cá thể không khác với thế giới bên ngoài và ngược lại thế giới bên ngoài cũng không khác với cá thể. Sự phân biệt đó là kết quả phát sinh từ sự diễn đạt của tâm thức một cá thể xuyên qua sự cảm nhận của ngũ uẩn.

Sự giao tiếp của thân xác với thế giới bên ngoài nhờ vào năm giác cảm là thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác vá xúc giác. Một cách tổng quát thì thân xác tượng trưng cho cửa ngõ đón nhận thế giới chung quanh xuyên qua giác cảm và đồng thời cũng là một phương tiện để tác động vào thế giới bên ngoài. Mỗi cảm nhận của giác cảm – tức là những gì từ bên ngoài « bước vào » – đều gây ra tác động trong tâm thức, tác động đó có thể là tích cực, tiêu cực hay trung hòa. Mỗi cử động – tức là những gì « bước ra » khỏi cửa ngõ – đều gây ra một tác động với môi trường chung quanh. Tác động đó có thể tích cực, tiêu cực hay trung hòa. Hãy lấy một thí dụ thật đơn giản, ta đi tản bộ trong một khu vườn. Hành động đi tản bộ có vẻ như mang tính cách trung hòa không tạo ra một nghiệp quan trọng nào cả. Nhưng trên thực tế thì rất phức tạp, vì ta có thể vô tình đạp lên côn trùng trên mặt đất hay trong cỏ. Mặc dù vô tình nhưng ta vẫn tạo ra nghiệp tiêu cực. Mặt khác sự kiện đi tản bộ cũng có thể tạo ra hậu quả tích cực, chẳng hạn như giúp cho máu huyết lưu thông, hít thở không khí trong lành, thay vì ngồi trong nhà xem phim Hàn quốc tràng giang bất tận.

Tóm lại phải luôn luôn cảnh giác và canh chừng cái cửa ngõ thân xác, kiểm soát những giác cảm đang tìm cách xâm nhập vào cửa ngõ ấy để phá rối ta và đồng thời cũng phải chọn lọc và phán xét xem những hành động nào của ta mang tính cách tích cực hay tiêu cực trước khi mở cửa cho nó tác động với thế giới bên ngoài. Một cách vắn tắt, người tu tập phải hiểu rằng mọi cử động đều tương tác với không gian chung quanh, có nghĩa là trực tiếp tạo ra nghiệp. Càng lăng xăng, chạy hết đầu này đến đầu kia, tay chân múa may không ngừng, trong đầu tính toán và hoạch định đủ mọi thứ mưu đồ thì đấy chỉ là cách tạo thêm nghiệp và mạng lưới duyên khởi sẽ càng siết chặt hơn. Tréo chân ngồi im là một trong những cách có thể giúp ta tránh được phần nào sự bủa vây của nghiệp. 

Đối với Phật giáo nói chung thì thân xác là một sự « cấu hợp ô nhiễm », bởi vì đó là hậu quả sinh ra từ nghiệp trong quá khứ. Thái độ của Nam tông và nhất là của Giới luật tông (Vinaya) đối với thân xác rất triệt để : thân xác là một thể dạng kinh tởm cần loại bỏ và không được bám víu vào đó. Thái độ của Bắc tông cũng triệt để không kém : thân xác con người là « cơ sở của mọi sự bám víu », nguồn gốc của mọi thứ khổ đau, tuy nhiên thân xác cũng là « cơ sở hàm chứa những phẩm tính » (ksanasampadadhisthana) giúp cho cá thể một dịp may để thực hiện tu tập Đạo pháp (Dharma). Vì thế đối với Bắc tông, người tu tập phải biết giữ gìn thân xác tinh khiết, nhưng không nên bám víu vào nó và cũng không nên trau chuốt cho nó quá đáng. Thái độ của Kim cương thừa thì khác hẳn và rất tích cực, xem thân xác như một hệ thống kinh mạch giúp cho những luồng khí lực luân chuyển. Sức mạnh của quán tưởng có thể biến thân xác thành một « ảo thân » của một thánh nhân hay một vị Phật, và cao hơn nữa có thể chuyển thành « thân xác cầu vồng » tức là « ứng thân » của một vị Phật. Đạt được ứng thân của một vị Phật có nghĩa là thành Phật ngay trong kiếp sống này.

- Ngôn từ : ngôn từ không nhất thiết chỉ dùng để chỉ định sự phát biểu ý nghĩ bằng tiếng nói mà còn chỉ định khả năng hiểu biết ý nghĩa của các cấu trúc âm thanh. Ngôn từ là một thành phần trung gian giữa tâm thức (tác ý) và thân xác (môi, lưỡi, dây thanh trong cuống họng, hơi trong phổi...). Đó là một cửa ngõ rất quan trọng mở ra cả hai chiều : vào và ra. Điều này rất quan trọng tuy nhiên ít người chú ý đến vì cái cửa ngõ ngôn từ đôi khi dùng để nhận vào nhiều hơn là để phát ra. Trong thế giới ngày nay chúng ta bị tràn ngập bởi các phương tiện truyền thông, nào là phim ảnh, ca nhạc, báo chí, tuyên ngôn, biểu ngữ, quảng cáo... Cái cửa ngõ ngôn từ vì thế đã trở thành gần như một chiều vì khối lượng nhận vào quá lớn làm cho nó thường xuyên bị tắc nghẽn, không còn kẻ hở để thoát ra. 

Ngày nay không mấy khi ta có dịp sử dụng cửa ngõ ngôn từ trong việc tu tập. Cách đây hơn hai ngàn năm khi xã hội còn đơn sơ và tinh khiết hơn ngày nay, thì con người không bị những phương tiện truyền thông bủa vây và tấn công dồn dập. Dầu cho vua A-Dục có cho khắc các chỉ dụ lên các trụ đá thì cũng chẳng có mấy người biết đọc. Vào các thời kỳ khi Đức Phật còn tại thế và sau đó khi Ngài đã tịch diệt, thì hầu hết con người chỉ có dịp nói với nhau trong gia đình, trên ruộng đồng, nơi quán chợ. Họ học thuộc những lời Phật dạy và kể lại cho nhau nghe với tất cả sự thành kính. Nhờ đó mà ngày nay chúng ta mới được thừa hưởng những gì tinh anh trong những lời giáo huấn của Phật và những gì ấm áp trong lòng người thời bấy giờ. Vì thế chánh ngữ không hẳn chỉ là một thứ luân lý đại chúng mà còn tượng trưng cho một sức mạnh trong việc tu tập nữa.

Vào thời bấy giờ, kỹ thuật còn thô sơ, ngoài cái cày, cái cuốc, cái xe bò..., người dân chưa có phương tiện gì để ghi lại hình ảnh và lời nói. Trong thời đại tân tiến và chỉ trong vài chục năm về sau này, đủ mọi phương tiện thu âm và thu hình được phát minh, nào là băng đĩa, máy thu âm nhỏ xíu, máy thu hình vidéo, máy điện thoại di động... Một số người hướng dẫn dư luận đã lợi dụng các tiến bộ kỹ thuật đó để quảng bá những lời không được chánh ngữ lắm trong mục đích lường gạt, che đậy, hoặc tệ hại hơn như khích động con người để phục vụ cho ý đồ của cá nhân hay của một tập thể nào đó.

Bất cứ trong một quốc gia nào cũng thế, phương tiện truyền thông đã trở thành một công cụ thật tinh vi để quản lý và áp đặt con người. Trong trường hợp đó chánh ngữ đã vượt ra khỏi lãnh vực cá nhân để mang tánh cách tập thể và xã hội. Những người hướng dẫn dư luận có thể quên một điều là những gì vua A-Dục khắc trên trụ đá đã vượt hơn hai ngàn năm lịch sử và còn lưu lại đến ngày nay. Những gì thu âm, thu hình hôm nay rồi sẽ dành cho những thế hệ mai sau thẩm định.

Dầu sao đi nữa thì chúng ta cũng phải công bằng mà phán xét, không nên chỉ biết kết án những gì tệ hại trong thế giới ngày nay. Vào thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, trong thung lũng sông Hằng cũng đã xảy ra những sự tranh cãi siêu hình, những tranh luận biện chứng giữa các vị thầy Bà-la-môn và kể cả các vị thủ lãnh chủ trương các hệ thống tư tưởng và tín ngưỡng khác nhau. Họ « gây ra cho nhau thương tích bằng cách đem đầu lưỡi làm khí giới ». Đức Phật gián tiếp ám chỉ đến các cuộc khẩu chiến ấy bằng cách cấm các đệ tử của Ngài không được tham gia vào đó. Nhiều kinh sách kể chuyện Ngài lưu ý các đệ tử phải thận trọng trong từng lời nói, không được biểu lộ tham vọng hay hận thù và Ngài đã nêu lên một cách minh bạch bốn thái độ phải tuân thủ như sau :

1- nói lên sự thật
2- nói những lời hòa giải, không nói hai lưỡi 
3- nói những lời mang ngụ ý tốt, khả ái, không gây ra lời đồn đại, không chỉ trích lời người khác và việc làm của người khác
4- nói những lời có ý nghĩa, không nói những lời phù phiếm và vô bổ

Tóm lại chánh ngữ là để hướng vào người khác, phục vụ người khác, đồng thời là một cách loại bỏ mọi bám víu, kiêu căng và tự hào, có nghĩa là loại bỏ sự thống trị của cái tôi. Sau đây là những lời dặn dò của Đức Phật cho các các đệ tử của Ngài :

« Người tu hành chỉ nói những lời hòa giải để giảng hòa những người hiềm khích lẫn nhau và kết chặt thêm sự hòa đồng. Người tu hành yêu chuộng sự hài hòa, tìm thấy vui thích trong sự hài hòa, niềm hân hoan trong sự hài hòa. Từ bỏ những lời thô bạo, người tu hành không nói lên những lời thô bạo. Người tu hành chỉ thốt ra những lời nói không sao chê trách được, êm ái, trìu mến, đi thẳng vào trái tim, nhã nhặn và tử tế đối với thật nhiều người, làm cho thật nhiều người ưa thích. Từ bỏ những lời nói phù phiếm, người tu hành không nói những lời phù phiếm, chỉ thốt lên những lời nói đúng lúc, trung thực, có ý nghĩa, phù hợp với Đạo pháp và giới luật, xứng đáng để lưu lại, hợp lẽ, thích nghi với mục đích tối hậu và bổ ích ».

(trích trong kinh Maha-Tanhasankhaya-Sutta, bản dịch Pháp ngữ của Môhan Wijayaratna, trong quền La Philosophie du Bouddha, Ed. de la Sagesse, 1995, trang 69) 

Có lẽ cũng cần nhắc thêm ra đây quan điểm đặc thù của Phật giáo Tây tạng về cửa ngõ ngôn từ. Đó chính là cơ sở giúp vào việc quảng bá Đạo Pháp bằng tiếng nói. Khắc phục được ngôn từ và hơi thở trong khi thiền định sẽ giúp chủ động được tâm thức. Điều hành được các luồng khí lực tinh tế và các chuyển động của chúng chính là chìa khóa của phương pháp luyện tập du-già mô tả trong Kim cương thừa. Các kinh tan-tra đều nói đến sự liên hệ giữa các cấu trúc kinh mạch của cơ thể và khả năng phát âm. Hình tướng nơi các huyệt ở đầu các kinh mạch tương quan với 16 nguyên âm trong bảng chữ cái của tiếng Phạn và chúng ảnh huởng đến khả năng phát ra âm thanh, vì thế nên khả năng phát âm nhất thiết liên quan với thân xác. Đó là điểm then chốt giải thích sự liên hệ giữa tác động tích cực của các câu niệm chú man-tra đối với thân xác. Sự trì tụng các câu man-tra sẽ tinh khiết hóa ngôn từ, có nghĩa là làm tan biến những dấu vết ô nhiễm trong cách nói thường nhật, tháo gỡ và tẩy uế các kinh mạch tinh tế, loại bỏ các độc tố của tâm thức, tinh khiết hóa bệnh tật của cơ thể, nuôi dưỡng khí lực tinh anh để mang lại Giác ngộ cho một cá thể. 

- Tâm thức : là cửa ngõ thứ ba của một cá thể. Tâm thức không sờ thấy được, không nghe thấy được, không màu sắc, vô hình và không nắm bắt được. Nó thuộc vào lãnh vực phi-vật-chất của một cá thể. Tâm thức không có cửa ngõ để tiếp xúc trực tiếp và trao đổi với thế giới chung quanh mà phải « đi nhờ » hai cửa ngõ của thân xác và ngôn từ. Tuy nhiên nó có một cửa ngõ riêng thông thương với tiềm thức hay a-lại-gia thức. Trong một giới hạn và một số điều kiện nào đó tâm thức có thể cảm nhận được những gì hiển hiện hay thoát ra từ a-lại-gia thức.

Tri thức và các thể dạng tâm thần phối hợp với nhau để tạo ra tâm thức. Đồng thời tâm thức cũng là cơ sở của tác ý (cetana) tức là các ý nghĩ chủ tâm (volition). Chính vì thế mà tâm thức giữ vai trò tạo nghiệp và cũng là cơ sở của mọi sự lầm lẫn và bấn loạn tâm thần. Tất cả các xúc cảm bấn loạn đều phát sinh từ tâm thức. Tuy nhiên tâm thức lại đứng ra điều khiển cả thân xác và ngôn từ. Vì thế mà người tu tập phải thật thận trọng và cảnh giác trước những khích động của tâm thức. Nói một cách khác cố gắng khắc phục tâm thức là cốt lõi của sự tu tập. 

Trong số năm uẩn tạo ra một cá thể con người thì bốn uẩn thuộc vào lãnh vực tâm thức, và điều đó cho thấy tầm quan trọng và sự phức tạp rất lớn của nó. Người tu hành phải dồn tất cả sức mạnh của mình để tìm hiểu và chế ngự tâm thức. Kinh sách vẫn thường nói khắc phục được tâm thức có nghĩa là đạt được Giác ngộ. 

Tất cả mọi hiện tượng đều là những phóng ảnh của tâm thức, nhưng chính nó thì lại không có một thực thể nào cả. Nếu ta « nhìn » thấy tâm thức thì đấy không phải là tâm thức vì bản chất của nó là trống không. Chính vì nó trống không nên bất cứ gì cũng có thể xảy ra trong tâm thức : từ hận thù đến yêu thương, từ cái tôi đến kẻ khác, từ địa ngục đến niết bàn... Quán thấy được bản chất trống không của tâm thức sẽ loại bỏ được tất cả những gì tác tạo ra nó.

Đối với Kim cương thừa tâm thức là căn bản thật tinh tế của ánh sáng trong suốt nguyên thủy, tức là Phật tính. Nếu không chủ động được tâm thức thì nó sẽ lôi kéo một cá thể lang thang bất tận trong thế giới ta bà. Khắc phục được tâm thức thì nó sẽ đưa cá thể hướng về sự Giải thoát, và nó sẽ dần dần nhường chỗ cho ánh sáng trong suốt nguyên thủy. Dù sao thì phần giải thích vắn tắt trên đây về tâm thức chỉ có mục đích trình bày cho đầy đủ khái niệm về ba cửa ngõ mà thôi.

Lời kết :

Một vị thầy đứng ra giảng chánh ngữ cho các Phật tử đến chùa, và sau khi giảng xong thì cảm thấy mình đã làm được một việc pháp thí, mang lại một chút nghiệp tốt nào đó cho mình. Người Phật tử nghe xong cũng cảm thấy mãn nguyện vì đã bỏ thì giờ đến chùa để nghe giảng và nghĩ rằng đã làm được một chút công đức gì đó để cải thiện cái nghiệp của chính mình. Tuy nhiên nếu khi người Phật tử rời khỏi cổng chùa mà đâu lại vào đấy, người ấy lại tiếp tục đem những ngôn từ công thức và quy ước ra để dùng. Hoặc khi bá tánh ra về, chú tiểu khép lại cổng chùa và vị Thầy lại quay về với những bận tâm khác, thì mỗi người lại vẫn sẽ tiếp tục nuôi dưỡng lấy nghiệp của mình. 

Chánh ngữ không phải chỉ là một chủ đề để đem ra giảng cho nhau nghe rồi sau đó thì việc ai nấy lo, chánh ngữ cũng không phải đơn giản là những quy tắc đạo đức, giữ được thì càng tốt mà không giữ được cũng không sao. Người tu tập phải ý thức được chánh ngữ là một trong những phương pháp tu tập chính yếu và kiên trì để mang lại cho mình một sức mạnh nội tâm hướng về Giác ngộ.

Không nên hiểu chánh ngữ một cách đơn giản là : tôi không được nói dối, tôi không được nói hai lưỡi, tôi không được nói lời độc ác, tôi không được nói những lời phù phiếm. Hiểu từ chương như thế thì cái tôi vẫn còn sờ sờ trước mắt, biết đến khi nào mới giác ngộ. 

Sau hết xin kể một câu chuyện rất phổ biến trong kinh sách như sau. Một hôm Đức Phật đi đến một nơi có tiếng là nguy hiểm vì nơi này có một tên sát nhân là Angulimala vô cùng hung dữ và lại đang tìm giết người thứ một ngàn. Chủ nhân một quán trọ thiết tha xin Đức Phật hãy dừng chân lại và đừng đi đâu cả. Đức Phật không nghe và vẫn lẳng lặng lên đường. Thị trấn vắng tanh, nhà nhà đóng cửa.

Angulimala thấy một nhà sư đang đi một mình trong một con phố vắng, hắn rút thanh kiếm và đi theo. Đức Phật thấy có kẻ lạ đến gần và biết ngay đấy là tên sát nhân mà mọi ngươi sợ hãi, tuy nhiên Ngài vẫn thản nhiên bước một cách thanh thản. Angulimala rất ngạc nhiên trước thái độ bình thản đó, hắn đưa cao thanh kiếm đứng chắn trước mặt Đức Phật và hét lên ra lịnh cho Đức Phật phải dừng lại. Đấng Như Lai không tỏ vẻ sợ hãi một chút nào và cất lời nói với Angulimala một cách thật dịu dàng : «Này Angulimala, con có biết không, ta đã dừng lại từ lâu lắm rồi. Chính con vẫn còn đang múa may trong lửa đỏ của hận thù, của giận dữ và dục vọng điên cuồng». Angulimala hết sức bất ngờ trước câu nói đó liền ngước nhìn để dò xét gương mặt của Phật. Trước vẻ mặt tràn đầy lòng từ bi và nhân ái của Đức Phật, Angulamala bỗng cảm thấy trơ trụi và cô đơn, và bất thần hắn nhận thấy mình đang bước trên con đường của khổ đau và bất hạnh. Hắn bèn ném bỏ thanh kiếm và quỳ xuống dưới chân của Đấng Giác Ngộ và xin nguyện sẽ từ bỏ cuộc sống hung ác. (theo kinh Angulimala-sutta, thuộc Trung Bộ Kinh). 

KHÁI NIỆM VỀ NGHIỆP TRONG PHẬT GIÁO

Nghiệp là một khái niệm chủ yếu trong giáo lý Phật giáo mang nhiều khía cạnh tâm lý và triết học siêu hình thật sâu sắc và phức tạp, thế nhưng lại thường được hiểu một cách quá máy móc và đơn giản. Bài viết dưới đây sẽ cố gắng trình bày khái niệm căn bản này dưới các góc nhìn bao quát, khoa học và triết học hơn.

 Vài nét đại cương về nghiệp theo giáo lý Phật giáo

 Nghiệp tiếng Phạn là karma hay karman, tiếng Pali là kamma, có nghĩa là một "hành động", một "hành vi". Vần kar (car) trong chữ karma có nghĩa là "hành động", "tác động", và cũng là vần gốc làm phát sinh ra chữ creare trong tiếng La-tinh, chữ creare lại biến thành créer khi chuyển sang tiếng Pháp và chữ create trong tiếng Anh, tất cả các chữ này đều có nghĩa là tạo ra, gây ra... Tóm lại có thể hình dung karma như là một động lực thúc đẩy để tác tạo một cái gì đó.

 Phật giáo Tây phương không dịch chữ này mà dùng thẳng tiếng Phạn là karma hay karman hoặc tiếng Pali là kamma. Ngày nay chữ karma đã trở thành một từ thông dụng trong các ngôn ngữ Tây phương và các tự điển phổ thông đều có nêu lên và giải thích từ này. Nói thế để thấy rằng ngày nay đối với nền văn hóa phương Tây khái niệm về nghiệp đã trở nên phổ cập.

 Thế nhưng đối với quảng đại quần chúng Tây phương và có thể cả Á đông, nghiệp đôi khi được hiểu như một thứ định mệnh, một hình phạt đeo sát người "tạo ra" nó như bóng với hình. Khi nghe nói đến nghiệp họ thường liên tưởng đến một cái gì đó thật tệ hại mà họ phải gánh chịu. Đối với những người có đôi chút kiến thức về Đạo Pháp thì nghiệp tượng trưng cho một khía cạnh vận hành nào đó của một quy luật tổng quát gọi là quy luật "nguyên nhân - hậu quả". Đấy là một quy luật tự nhiên, mang tính cách toàn cầu và không nhất thiết tượng trưng cho một sự áp đặt. Người tu tập đúng đắn chẳng những không sợ hãi quy luật ấy mà còn biết dùng nó để hành động một cách chân chính để thực hiện những quyết tâm và ước vọng của mình hầu mang lại hạnh phúc cho chính mình và người khác.

 Tuy nhiên cách hiểu trên đây về nghiệp cũng đã được đơn giản hóa rất nhiều, vì thật ra nghiệp hàm chứa nhiều khía cạnh phức tạp liên quan đến nhiều khái niệm khác trong giáo lý Phật giáo. Thật vậy đối với Phật giáo, khái niệm về nghiệp không đơn thuần tượng trưng cho một chuỗi tiếp nối giữa những nguyên nhân ngẫu biến mang lại những hậu quả tất yếu mà con người phải gánh chịu một cách thụ động, mà cũng không quan niệm nghiệp là một thứ định mệnh an bài mang tính cách tiền định và thiêng liêng. Thật vậy, nếu hiểu đúng những lời giáo huấn của Đức Phật thì nghiệp chính là một sự cảnh giác, một niềm hy vọng lớn lao, một cách ý thức trách nhiệm đối với chính mình và người khác.

 Văn hóa Tây phương chịu ảnh hưởng nặng nề về một định đề triết học và tôn giáo lâu đời dựa trên nền tảng chủ nghĩa cá nhân, tức xem con người là duy nhất, khác biệt nhau và tách rời khỏi thế giới chung quanh. Sự hiểu biết về nghiệp của một số người Tây phương do đó đôi khi cũng trở nên đơn giản và máy móc. Thật vậy, ta sẽ không thể nào hiểu được nghiệp nếu chỉ biết đơn giản căn cứ vào sự phân biệt giữa "cái tốt" và "cái xấu", "cái đúng" và "cái sai". Cách suy luận như thế quả thật quá đơn sơ và thô thiển để có thể hiểu được khái niệm về nghiệp một cách thỏa đáng.

 Cái Lôgic (hay sự hợp lý) của nghiệp thực sự không mang tính cách trực tiếp tức hướng theo một đường thẳng - hoặc tích cực hoặc tiêu cực - mà đúng hơn đấy là một sự tương tác vô cùng phức tạp giữa vô số hiện tượng, vừa vật-chất và phi-vật-chất, xuyên qua không gian và thời gian, liên quan đến lãnh vực nội tâm của một cá thể và cả thế giới hiện thực bên ngoài. Vậy nghiệp thực sự là gì ?

 Trước hết nghiệp có nghĩa là một sự chủ tâm, một ý định (intention), một tác động tâm thần mang tính cách duy ý còn gọi là tác ý (volition), tiếng Phạn là cetana. Tác ý hay sự chủ tâm (cetana) là một trong sáu khả năng căn bản của tâm thức gọi là tri thức tâm thần (manovijnana), năm tri thức kia là năm tri thức giác cảm. Tri thức tâm thần luôn luôn sinh động trong tâm trí của một cá thể và hàm chứa khả năng cảm nhận một vật thể hoặc một biến cố thuộc ngoại cảnh, hoặc một hình ảnh phát sinh trong tâm thức. Các đối tượng vừa kể khi được cảm nhận bởi tri thức sẽ làm nảy sinh ra xúc cảm. Xúc cảm hiển lộ dưới thể dạng một hành vi tâm thần, tức một sự duy ý hay tác ý và đấy chính là nghiệp. Nói cách khác nếu sự cảm nhận của ngũ giác và tri thức khi tiếp xúc với đối tượng nhưng không làm phát sinh ra ý định, duy ý hay tác ý thì sẽ không tạo ra nghiệp, chẳng hạn như sự tiêu hóa, bài tiết, kể cả các giác cảm và sự nhận thức đơn thuần.

 Tóm lại sự chú tâm, ý định hay tác ý giữ vai trò hướng tâm thức vào một đối tượng thuộc bối cảnh bên ngoài hay một hình ảnh trong tâm thức, do đó người ta có thể định nghĩa nghiệp là một sự chuyển động hay một động tác. Sự chuyển động của nghiệp tác động liên tục trên dòng chảy của tâm thức. Vì thế nếu không chủ động được sự tác động của dòng lưu chuyển đó thì một cá thể sẽ liên tục tạo nghiệp cho chính mình. Thiền định là một cách làm giảm bớt đi hoặc ngưng hẳn dòng chuyển động và hình thành liên tục của nghiệp trong tâm thức. Trong quyển sách (L'Enseignement du Bouddha, Seuil, 1961, trang 42) Walpora Rahula có trích dẫn một lời giảng của Đức Phật trong Tăng Chị Bộ kinh như sau :

 "Này các tỳ kheo, Ta bảo rằng tác ý (cetana) đấy là nghiệp (kamma). Với ý muốn (chủ đích trong tâm thức) người ta hành động bằng thân xác, bằng ngôn từ và bằng cơ quan tâm thần của mình",
(Tăng Chi Bộ Kinh, Anguttara-nikaya, III, 415, ấn bản Colombo, 1929, trang 500).
 Thiết nghĩ để có thể hiểu được nghiệp là gì thì có lẽ đây là một trong những lời giảng quan trọng của Đức Phật. Ý nghĩa trong câu trên đây cho thấy rõ tác ý đã là nghiệp, từ nghiệp sinh ra hành động trên thân xác, bằng ngôn từ hay trong nội tâm tức cơ quan tâm thần. Chữ cơ quan tâm thần là dịch từ chữ organe mental trong câu tiếng Pháp, tiếng Phạn là manas, tiếng Pali là mano, kinh sách gốc Hán dịch là mạt-na thức. Mạt-na thức là thức thứ sáu còn gọi là tri thức (consciousness), hoặc nếu hiểu theo học phái Duy thức (Yogacara) thì đấy là thức thứ bảy (còn gọi là nhiễm tâm - klistamanas), các vấn đề liên quan đến các thuật ngữ này sẽ được trình bày chi tiết trong các phần bên dưới.

 Ý định hay tác ý xảy ra trong từng khoảnh khắc một, tức mang tính cách nhất thời có nghĩa là không liên tục, thế nhưng khi khoảnh khắc ấy chấm dứt thì vết hằn hay sự tồn dư vẫn tiếp tục lưu lại trong khoảnh khắc xảy ra tiếp theo sau đó, đây cũng là cách giải thích về trí nhớ theo quan điểm của Phật giáo.

 Vết hằn của tác ý lưu lại một dấu vết trên dòng chảy của tâm thức gọi là mầm mống, nghiệp lực, chủng tử, v.v...(tiếng Phạn vasana), tượng trưng cho một xung năng hay một sức mạnh thúc đẩy. Vào một lúc nào đó khi một số điều kiện hay cơ duyên hội đủ tạo ra hoàn cảnh thuận lợi thì các vết hằn của nghiệp sẽ làm phát sinh ra hậu quả mang cùng một bản chất tích cực hay tiêu cực với các dấu vết ấy. Câu trích dẫn sau đây trong kinh Di-lan-đà (Milandapanha, còn gọi là Na-tiên Tỳ kheo kinh) có thể tóm lược những gì vừa trính bày trên đây. Trong kinh này nhà vua Di-lan-đà (Milanda, vua xứ Penjab, thế kỷ thứ II trước Tây lịch) có hỏi tỳ kheo Na-tiên (Nagasena) như sau :

 "Thế thì nghiệp nó nằm ở đâu ?". Tỳ kheo Na-tiên trả lời như sau : "Thưa Đại vương, không thể bảo nghiệp được "cất giữ" một nơi nào đó [cố định] trong cái tri thức luôn luôn chuyển động không thể nắm bắt được, hoặc một nơi nào đó trong thân xác. Thế nhưng nó lại tùy thuộc vào tâm thức và vật chất (thân xác) và sẽ phát hiện vào một thời điểm thích nghi. Cũng thế không thể bảo rằng các quả xoài được "cất giữ" một nơi nào đó trong cây xoài, thế nhưng nó lại lệ thuộc vào cây xoài và hiện ra (đơm quả) khi mùa màng thích nghi", (dựa theo bản dịch tiếng Pháp của Louis Finot, Les questions de Milanda, Ed. Dharmas, 1983)

 Khi một vết hằn được lưu lại trên dòng tri thức của một cá thể, nó sẽ liên kết với vô số các dấu vết khác tức những ý định hay tác ý khác có sẵn từ trước hoặc sẽ phát sinh sau đó để tạo ra một sự "kết hợp" mang một "xu hướng chung", thúc đẩy cá thể ấy phát lộ trong tương lai những tác ý mang một xu hướng nào đó mà cá thể ấy không cưỡng lại được. Tác ý sẽ xui khiến cá thể ấy "phạm" vào những hành động mang tính cách tự phát tức có nghĩa là thực thi một cách tự động.

 Tóm lại nghiệp gồm có hai thành phần và cả hai đều thuộc vào lãnh vực tâm thần : thành phần thứ nhất là ý định tức thuộc cùng một thể loại phi-vật-chất với tâm thức, thành phần thứ hai là một vết hằn ghi khắc trên dòng tri thức của một cá thể. Vết hằn có thể hiển hiện và chuyển thành quả bất cứ lúc nào, do đó có thể gọi nó là mầm mống tồn lưu trong tri thức. Mầm mống đó sẽ tác động và chi phối sự hình thành của một cá thể trong tương lai, tức ảnh hưởng đến sự cấu tạo hình tướng và tâm thức của cá thể ấy.

 Các đặc tính chính yếu của nghiệp dựa vào kinh sách

 Trên đây là vài nét đại cương về nghiệp và dưới đây là phần trình bày các đặc tính chính yếu căn cứ theo kinh sách.

I- Bốn đặc tính căn bản của nghiệp (catvari karmasvabhava).

 Nghiệp gồm có bốn thể tánh hay đặc tính như sau :

 1- Thể tánh quyết định của nghiệp : nghiệp mang tính cách quyết định tức có nghĩa là quả luôn luôn mang cùng một bản chất với nghiệp làm phát sinh ra nó.

 2- Sự tăng trưởng của nghiệp : nghiệp luôn luôn sinh động, trong trường hợp nếu nghiệp không được tinh khiết hóa thì nó sẽ liên tục tăng trưởng cho đến khi nào gặp được các điều kiện thích nghi khiến cho nó phát sinh ra quả.

 3- Nghiệp không thực thi (không hoàn tất): nếu không hề có tác ý, cũng không hề có hành động thì đương nhiên cũng sẽ không có một hậu quả nào xảy ra. 

 4- Nghiệp đã hoàn tất: nghiệp khi đã hoàn tất sẽ không thể tan biến đi được và nhất định nó sẽ tạo ra quả vào một thời điểm nào đó, tất nhiên là trừ trường hợp nghiệp ấy đã được hóa giải hay tinh khiết hóa bằng sự tu tập.

II- Bản sắc và cường độ của nghiệp

 Tùy theo bản chất của ý định và hành động, nghiệp sẽ mang các sắc thái và cường độ khác nhau :

 - Hành động đạo hạnh hay trong trắng (kusalakarma) : hậu quả mang lại sẽ tốt lành và thuận lợi.

 - Hành động tiêu cực hay đen tối (akusalakarma) : hậu quả mang lại sẽ là khổ đau.

 - Hành động trung hòa (avyakrtakarma) : hậu quả mang lại không hạnh phúc cũng không khổ đau.

 Các đặc tính như thuận lợi hay bất thuận lợi không nhất thiết liên hệ hay tương quan với các nguyên tắc đạo đức quy định bởi nền luân lý quy ước và độc đoán do con người thiết đặt, mà tùy thuộc vào bản chất đích thực của chính hành động thực thi. Bản chất đó được xác định căn cứ vào chủ đích của động cơ thúc đẩy một chủ thể hành động với mục đích tạo ra sự tốt lành hay khổ đau cho các chúng sinh khác, thí dụ như cứu giúp kẻ khốn cùng vì lòng từ bi hoặc sát sinh vì hung ác.... Vì thế nếu muốn xác định bản chất đích thực của nghiệp thì phải phân biệt thật rõ rệt bản chất của ý định hay sự chủ tâm là gì và bản chất của hành động thực thi là gì. Thí dụ :

 - Ý định trong trắng và hành động trong trắng : chẳng hạn như ý định trong trắng phát xuất từ lòng từ bi và hành động trong trắng nhằm giúp đỡ người khác tránh khỏi khổ đau.

 - Ý định trong trắng nhưng hành động đen tối : Ý định trong thâm tâm mang tính cách tích cực, thế nhưng hành động phát lộ bên ngoài là sự nghiêm khắc và giận dữ nhằm mục đích cảnh giác và làm thức tỉnh người khác.

 - Ý định đen tối nhưng hành động trong trắng : cho một người nào đó một thứ gì nguy hại, chẳng hạn như biếu rượu cho người say sưa, hoặc giả vờ hiền lành và dễ thương nhằm mục đích lường gạt hoặc thực hiện một ý đồ ích kỷ nào đó.

 - Ý định đen tối và hành động đen tối : thí dụ một người nào đó bị các xung năng tiêu cực thúc đẩy làm điều sai trái đối với người khác, chẳng hạn như nguyền rủa hoặc gây thương tích cho người khác.

 Sau đây là bảng liệt kê các hành động tạo ra nghiệp trong trắng và nghiệp đen tối :

- Nghiệp trong trắng hay thuận lợi : gồm có mười hành vi thiếu đạo đức phải tránh và mười điều đạo hạnh nên làm :

Ba điều thuộc thân xác :

1- Không tước đoạt sự sống - cứu được một sinh linh thoát chết.

2- Không trộm cắp - bố thí.

3- Không phạm vào hành vi tính dục thiếu đạo hạnh - biết giữ gìn sự tiết dục.

Bốn điều thuộc ngôn từ :

4- Không nói dối - nói lời ngay thật.

5- Không gièm pha - nói lời hàn gắn và hòa giải.

6- Không nguyền rủa - nói lời êm ái.

7- Không ăn nói huyên thuyên vô bổ - thường xuyên tụng niệm.

Ba điều thuộc tâm thức :

8- Không ganh tị - hân hoan khi thấy người khác được hạnh phúc.

9- Không ác ý - phát lộ lòng nhân từ.

10- Loại bỏ những quan điểm sai lầm - chọn lựa những quan điểm đúng đắn.

- Nghiệp đen tối hay bất thuận lợi bắt nguồn từ :

Sáu thứ dục vọng căn bản, kinh sách gốc Hán gọi là lục đại phiền não, gồm có : bám víu, ghét bỏ, vô minh, tự kiêu, nghi ngờ, quan điểm sai lầm.

Hai mươi dục vọng thứ yếu, gồm có : thù nghịch, oán hận, ác ý, ganh tị, lừa lọc, v.v...

Phạm vào mười hành động thiếu đạo hạnh, gồm có :

- Ba hành động thuộc thân xác : sát sinh, trộm cắp, hành vi tính dục thiếu đạo hạnh.

- Bốn hành động thuộc ngôn từ : nói dối, vu khống, nguyền rủa, ăn nói huyên thiên vô bổ.

- Bốn hành động thuộc tâm thần : thèm muốn, ác tâm, nuôi dưỡng những quan điểm lệch lạc.

III- Nghiệp thúc đẩy và nghiệp bị khích động

 Có hai loại nghiệp khác nhau :

- Nghiệp thúc đẩy: còn gọi là ý nghiệp (tiếng Phạn cetanakarma) tức là nghiệp mang tích cách chủ động, giữ vai trò xui khiến và khích động (volition, intentional action, karma producing impulses). Nghiệp thúc đẩy là nghiệp phát sinh từ những ý định trong tâm thức.

- Nghiệp bị khích động: (tiếng Phạn cetayitvakarma) tức là nghiệp thực thi do tâm thức thúc đẩy, tức do ý chí xui khiến. Nghiệp bị thúc đẩy hay bị khích động gồm có thân nghiệp (kayakarma), khẩu nghiệp (vakkhakarma) và ý nghiệp (manaskarma) phát sinh trong tâm thức.

 Thí dụ : thù ghét một người nào đó (nghiệp thúc đẩy) và lấy gậy đánh người này (thân nghiệp), hoặc chửi rủa người này (khẩu nghiệp), hoặc không chửi rủa cũng không đánh người này nhưng lại mưu đồ trong tâm thức ám hại người này (ý nghiệp, tâm nghiệp), xin chú ý là trong trường hợp này ý nghiệp trở thành một hành vi trong tâm thức và có thể xem như là một thứ nghiệp thúc đẩy.

 Tóm lại loại nghiệp thứ nhất tức nghiệp thúc đẩy (cetanakarma) mang tính cách chủ động là loại nghiệp quan trọng hơn cả vì giữ vai trò khích động, thúc đẩy làm phát sinh ra thân nghiệp, khẩu nghiệp và tâm nghiệp (ý nghiệp).

IV- Con đường của nghiệp (Karmamarga)

 Con đường của nghiệp nguyên nghĩa tiếng Phạn là karmamarga (marga có nghĩa là con đường) tượng trưng cho sự tiến hành hay quá trình diễn tiến của nghiệp. Con đường của nghiệp khi được diễn tiến đầy đủ tức có nghĩa là hoàn tất, sẽ gồm có bốn giai đoạn hay bốn điều kiện tất yếu như sau :

1- Căn bản hay cơ sở (vastu) : tức bắt buộc phải có một đối tượng giúp cho nghiệp hướng vào đó để hoàn tất. Căn bản hay cơ sở đó là một chúng sinh có giác cảm. Thí dụ nghiệp sát sinh chỉ có thể hình thành khi có một chúng sinh bị giết, nghiệp do việc săn bắn chỉ có thể xảy ra khi nào có một con thú bị giết.

2- Tư duy (asaya) : tức phải có một ý định hay ý muốn. Tư duy (ý định, ý muốn) gồm có ba thành phần :

 a) sự xác định hay sự nhận dạng hướng vào một căn bản hay cơ sở nào đó, (thí dụ : nhận dạng một con thú).

 b) sự khích động : tức ý định hay ý muốn thực thi một hành động hoàn toàn ý thức, (thí dụ : chủ tâm muốn giết con thú).

 c) bản chất của sự khích động : bản chất của sự khích động hay sự ham muốn có thể mang tính cách tích cực hoặc tiêu cực, (thí dụ sự khích động mang bản chất tiêu cực : ham muốn được ăn thịt con thú hoặc thèm muốn có tấm da thú).

3- Hành động (prayoga) : tức là giai đoạn khi ý định hay ý muốn được thực thi một cách cụ thể, (thí dụ : cầm khẩu súng nhắm vào con thú và bóp cò).

4- Sự hoàn tất (nisthagamana) : tức mục đích của ý định đã được thực hiện và hoàn tất, có nghĩa là hành động mang lại hiệu quả phù hợp với ý muốn, (thí dụ : con vật bị giết).

 Khi hội đủ bốn yếu tố hay điều kiện trên đây thì nghiệp được gọi là hoàn tất.

V- Hậu quả của nghiệp (karmaphala)

 Nếu bốn giai đoạn trên đây xảy ra trọn vẹn thì con đường của nghiệp sẽ mang lại ba loại hậu quả theo thứ tự như sau :

 1- Kết quả hoàn toàn chín muồi (vipakaphala) : thí dụ trong trường hợp tiêu cực, hậu quả trọn vẹn do nó mang lại sẽ là sự tái sinh trong một cảnh giới thấp, chẳng hạn như nghiệp do sự giận dữ sẽ khiến tái sinh trong cõi địa ngục, nghiệp do vô minh và đần độn sẽ khiến tái sinh trong cõi ngạ quỷ hay súc sinh...

 2- Kết quả phù hợp với nguyên nhân (nisyandaphala) : hậu quả mang cùng một thể loại hay bản chất với hành động, có nghĩa là hậu quả luôn luôn phù hợp với xu hướng hay xung năng thúc đẩy một cá thể ưa thích một số hành động nào đó. Thí dụ nghiệp do hành động sát nhân sẽ thúc đẩy một cá thể sau khi tái sinh mang bản tính hung hăng thích việc sát sinh, hoặc nhận chịu hậu quả cùng một thể loại với hành động mà chính mình đã thực thi trước kia, chẳng hạn như sẽ bị giết hay sẽ phải tái sinh, hoặc sẽ phải chết non trong nhiều kiếp liên tiếp.

 3- Kết quả phù hợp với quyền lợi (adhipatihala) : đó là kết quả đưa đẩy một cá thể tái sinh trong một môi trường sống phù hợp và tương quan với nghiệp của cá thể ấy. Thí dụ một số nghiệp tiêu cực đưa đến sự tái sinh trong một môi trường bất thuận lợi, chẳng hạn như một nơi nghèo đói, chiến tranh, chậm tiến, hoặc trong một gia đình nghèo khổ, bất hạnh... Có ba loại nghiệp tương quan với bản chất của kết quả như sau :

 a) Nghiệp xứng đáng (punyakarma) : tức nghiệp tích cực khiến tái sinh trong hoàn cảnh thuận lợi thuộc cõi dục giới.

 b) Nghiệp không xứng đáng (apunyakarma) : tức nghiệp tiêu cực khiến tái sinh trong hoàn cảnh bất thuận lợi thuộc cõi dục giới.

 c) Nghiệp tĩnh lặng (aninjyakarma) : tức là nghiệp mang lại từ sự vắng lặng hay tĩnh lặng của tâm thức, đấy là một thứ nghiệp tích cực khiến tái sinh trong cõi sắc giới (cõi hình tướng tinh khiết - rupadathu) hoặc cõi vô sắc giới (cõi vô hình tướng hay phi-vật-chất - arupadathu).

 Tuy nhiên cũng nên hiểu là chúng sinh trong cả ba cõi trên đây - dục giới, sắc giới và vô sắc giới - vẫn còn bị trói buộc trong vòng tái sinh vì các chúng sinh ấy vẫn còn vướng mắc trong vô minh có nghĩa là vẫn còn nhận diện một cái tôi và đồng thời không nhìn thấy bản chất đích thực của mọi hiện tượng.

VI- Sự tích lũy và hoàn tất của nghiệp

 Khi một cá thể bắt đầu phát lộ trong tâm thức một sự chủ ý hay quyết tâm nhằm thực hiện một hành động nào đó thì đấy gọi là nghiệp tích lũy hay tích tụ, có nghĩa là chưa phát hiện thành hành động trên thân xác hay bằng ngôn từ. Nghiệp được gọi là hoàn tất khi nào hành động đã hoàn toàn được thực hiện. Cách phân loại nghiệp như trên đây cho thấy khi vừa có một ý định, một quyết tâm, có nghĩa là tác ý hiển hiện trong tâm thức, thì tức khắc nghiệp đã bắt đầu hình thành. Khi tác ý chuyển thành hành động thì khi đó mới thật sự tạo ra khẩu nghiệp, thân nghiệp hay ý nghiệp. Trong trường hợp này nên hiểu ý nghiệp hay tâm nghiệp là một "hành động" xảy ra trong tâm thức, thí dụ như nguyền rủa trong đầu hoặc mưu tính ám hại một người mà mình thù ghét.

 Bốn trường hợp có thể xảy ra trong quá trình diễn tiến từ nghiệp tích lũy đến nghiệp hoàn tất :

 a) Nghiệp tích lũy được hoàn tất : thí dụ ta có ý sát sinh và đem ý định ấy ra thực hiện (giết được một con thú chẳng hạn).

 b) Nghiệp đã được tích lũy thế nhưng không hoàn tất : thí dụ ta có ý sát sinh thế nhưng lại không giết con vật.

 c) Nghiệp không tích lũy thế nhưng được hoàn tất : thi dụ ta không có ý định sát sinh thế nhưng lại vô ý phạm vào hành động đó.

 d) Nghiệp không tích lũy cũng không hoàn tất : thí dụ ta không có ý sát sinh thế nhưng lại vô tình phạm vào hành động đó, tuy nhiên ta biết hối hận ngay và tức thời sử dụng bốn sức mạnh (hối hận, không tái phạm, đạo đức, tu tập) để tinh khiết hóa hành động đó.

VII- Sức mạnh của nghiệp

 Sức mạnh hay cường lực tác động của nghiệp tùy thuộc vào các yếu tố sau đây :

 a) Thời gian : nghiệp tiềm tàng hay chất chứa càng lâu càng trở nên mạnh mẽ hơn, có nghĩa là khoảng cách giữa thời điểm khi nghiệp được ghi khắc và thời điểm khi quả phát sinh là một yếu tố khiến gia tăng thêm cường lực của nghiệp.

 b) Con đường của nghiệp : sức tác động của nghiệp càng mạnh nếu quá trình diễn tiến của nghiệp tức là con đường của nghiệp được tiến hành trọn vẹn (gồm có : căn bản - tư duy - hành động - sự hoàn tất).

 c) Đối tượng của nghiệp : nếu đối tượng của hành động tạo nghiệp tiêu cực là một thánh nhân, một người đạo đức, một người thân thuộc (chẳng hạn như cha mẹ), một vị bồ-tát hoặc một chúng sinh đang lâm vào hoàn cảnh khốn cùng và tuyệt vọng (tạo ra dịp cho ta lợi dụng) thì sức tác động của nghiệp càng trở nên mãnh liệt hơn.

 d) Tính cách thường xuyên : nếu liên tiếp thực thi một hành động cùng một thể loại và mang cùng một mục đích thì sự tái diễn đó sẽ khiến cho nghiệp lực của từng hành động gia tăng mạnh mẽ hơn.

 e) Cường độ của ý định : nghiệp lực có sức tác động khác nhau giữa sự bực bội thoáng qua và lòng hận thù sâu đậm, giữa sự thương hại nhất thời và lòng từ bi lâu bền.

 f) Nghiệp đối kháng hay đối nghịch : một nghiệp mang bản chất đối kháng hay đối nghịch với một nghiệp khác sẽ có khả năng làm giảm bớt, chận đứng hoặc hóa giải được nghiệp ấy, (thí dụ : tuy tham lam thế nhưng thường xuyên tham gia vào các công tác từ thiện, hoặc biết sám hối).

VIII- Sự tinh khiết hóa của nghiệp

 Theo Phật giáo Đại thừa khi một nghiệp cố tình hay cố ý tức duy ý dù đã được ghi khắc trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức, vẫn có thể tinh khiết hóa hay hóa giải được nó. Vì thế nếu tinh khiết hóa càng sớm thì càng dễ dàng hơn, vì lúc đó nghiệp chưa phát triển quá mạnh và chưa ăn quá sâu vào dòng tiếp nối của tri thức, tức có nghĩa là lúc mà cá thể tạo nghiệp còn nhớ được hành động của mình và ý thức được tác động của nó để tinh khiết hóa nó. Sự tinh khiết hóa cần đến sự phối hợp của bốn sức mạnh như sau :

 a) Sức mạnh của sự hối hận.

 b) Sức mạnh của lòng quyết tâm không tái phạm.

 c) Sức mạnh do sự giữ gìn đạo đức.

 d) Sức mạnh do sự tu tập: chẳng hạn như sám hối trước chư Phật, phát động sự giác ngộ, tụng niệm man-tra, tinh khiết hóa bằng phép tu tập Kim cương Tát đóa (Vajrasattava),....

 Ngược lại các nghiệp tích cực và các phẩm hạnh tích lũy từ trước cũng có thể bị các nghiệp tiêu cực xảy ra sau đó làm cho tiêu tan. Kinh sách thường cảnh giác người tu tập như sau : "một phút giây nóng giận cũng có thể làm tiêu tan nghiệp lành tích lũy từ muôn ngàn kiếp". Ngoài ra cũng cần ghi nhớ là khi cơ duyên đã hội đủ giúp cho nghiệp trở thành chín muồi thì khi đó sẽ không còn phương cách nào có thể hoá giải được nó và sự phát hiện của quả trở thành một điều tất yếu.

IX- Bản chất tâm thần của nghiệp :

 Nghiệp luôn luôn mang tính cách tâm thần. Những gì không mang tính cách duy ý hay chủ tâm thì không tạo ra nghiệp kể cả những cảm nhận trên thân xác (giác cảm) và sự nhận thức đơn thuần (không kèm theo sự diễn đạt) trong tâm thức. Xin trích dẫn câu sau đây trong quyển sách của Walpola Rahula (L'Enseignement du Bouddha, op. cit., trang 42) : 

 "Các giác cảm và nhận thức không phải là những hành động duy ý. Chúng không gây tác động làm phát sinh ra nghiệp. Chỉ có những hành động chủ ý mới tạo ra nghiệp, chẳng hạn như : sự chú tâm (manasikara), sự tin tưởng (saddha), sự tập trung (samadhi), trí tuệ (panna), nghị lực (viriya), sự thèm khát (raga), sự ghê tởm hay hận thù (patigha), vô minh (avijja), sự kiêu căng (mana), ý nghĩ về cái tôi (sakkaya-ditthi), v.v..."

 Câu trên đây cho thấy chỉ có sự chủ ý trong tâm thức mới lưu lại một vết hằn trên dòng chảy của tri thức, tất cả những gì xảy ra thuộc ngoại cảnh kể cả các giác cảm trên thân xác và sự nhận thức tâm thần (không đi kèm với sự diễn đạt) cũng không tạo ra nghiệp lực. Xin trở lại thí dụ về người đi săn, người này nâng súng nhắm vào con thú và bóp có, và đấy là một sự chủ tâm chuyển thành hành động. Vậy những gì sẽ xảy ra sau đó ? 

 Trường hợp con thú bị trúng đạn và dẫy chết, người săn bắn thích thú và vui mừng. Sự thích thú và vui mừng (thật ra chỉ là những phản ứng mang bản chất vô minh) là những gì trực tiếp tạo ra nghiệp và để lại một vết hằn trong dòng tri thức của người săn bắn. Sự đau đớn của con thú dẫy chết, vết thương phun máu... thuộc vào bối cảnh bên ngoài nên không trực tiếp tạo ra nghiệp, sự vui thích (mang bản chất tiêu cực) trong tâm thức của người săn bắn mới để lại vết hằn trong tâm thức của người ấy.

 Trường hợp con thú bị thương, què một chân và chạy thoát. Người săn bắn tiếc rẻ, đuổi theo và hy vọng tìm ra nó và bắn được nó. Tiếc rẻ và hy vọng tạo ra nghiệp, con thú bị thương không tạo ra nghiệp mà chỉ gián tiếp làm đối tượng (cơ sở hay căn bản) cho sự tạo nghiệp của người săn bắn. Tuy rằng cái chết của một con vật không để lại vết hằn trong tâm thức của người săn bắn, thế nhưng lại trực tiếp tạo ra tác động đối với môi sinh. Sự tác động đó (dù vô nghĩa đi nữa) cũng sẽ ảnh hưởng đến sự biến đổi của môi trường và toàn thể sự sống trong đó có người đi săn. Hậu quả của hành động sát sinh sẽ dễ nhận thấy hơn nếu đấy không phải là một con vật bị bắn mà là một con người bị giết. Cái chết ấy sẽ gây ra hận thù và đau thương..., đau thương và hận thù sẽ nhân lên và tỏa rộng.

 Nếu đấy không phải một con người bị giết mà là một cuộc chiến xảy ra, thì khổ đau và oán hận sẽ khi khắc trên dòng tri thức của hàng triệu người chiến bại, "hân hoan" và "hạnh phúc", biểu hiện của vô minh sẽ tràn ngập dòng tri thức của hàng triệu người chiến thắng. Nghiệp là như thế, khởi đầu chỉ là một chủ ý (cetana) trong tâm thức của mỗi cá thể, hậu quả là thế giới ta-bà.

 Xin nêu lên một thí dụ đối nghich, chẳng hạn như một người ngồi thiền vẫn nhận biết các giác cảm phát sinh trên thân xác, các chức năng nhận thức vẫn sinh hoạt trong tâm thức, thế nhưng không có sự diễn đạt (xúc cảm) hay chủ ý (cetana) nào xảy ra, sự tạo nghiệp do đó cũng không có. Thế nhưng nếu trí tuệ (sự tập trung) vụt hiển hiện dù thuộc vào một cấp bậc nào thì đấy là một nhân tố tạo nghiệp, nhưng lại là một thứ nghiệp mang lại sự giải thoát.

 Cộng nghiệp và sự hồi hướng

 Ngoài các đặc tính của nghiệp được liệt kê trên đây, có lẽ cũng cần nêu lên hai khái niệm ít nhiều liên quan đến các đặc tính của nghiệp, đấy là cộng nghiệp và sự hồi hướng.

 Vậy cộng nghiệp là gì ? Thật ra khái niệm về cộng nghiệp không thấy bàn đến (?) trong các kinh sách và các tập luận giải xưa, hoặc cũng có thể không hay chưa tìm thấy (?) vì con số kinh sách quá lớn. Hơn nữa cũng không thấy các học giả Phật giáo ngày nay nhất là các học giả Tây phương đề cập đến vấn đề này một cách rộng rãi. Do đó có thể hiểu nghiệp nhất thiết mang tính cách cá thể nhiều hơn.

 Thông thường người ta "hình dung" hay "suy ra" cộng nghiệp khi nhìn vào các hậu quả xảy ra giống nhau, chung cho nhiều người kể cả một dân tộc. Dù cho một tập thể thực thi hay biểu lộ một hành động chung nào đó, thí dụ như sinh sống bằng một nghề giống nhau, nhiều người phản kháng một đạo luật hay một thể chế chính trị, thực thi một mục đích hay lý tưởng chung, hoặc đổ xô theo một phong trào hay một giáo phái nào đó..., thì tác động gây ra từ những hành động ấy rất có thể là không giống nhau trong tâm thức của mỗi cá thể, bởi vì các hành động đó còn kết hợp và tương tác với các xu hướng, xung năng và quyền lợi cá nhân phát sinh từ những nghiệp khác có sẵn trong mỗi cá thể.

 Hãy lấy một thí dụ cụ thể, khi nhìn vào một tại nạn phi cơ xảy ra chẳng hạn, người ta có thể nghĩ rằng đấy là do nơi cộng nghiệp của hành khách và cả phi hành đoàn đã đến lúc chín muồi và hậu quả tất yếu đã xảy ra chung cho mọi người. Thế nhưng hành khách thì thuộc mọi lứa tuổi, mang nhiều quốc tịch khác nhau, thừa hưởng những nền văn hóa, giáo dục và tính ngưỡng khác nhau, mang những cá tính khác nhau, một cách tóm tắt là thừa hưởng những nghiệp rất khác biệt nhau. Tại nạn phi cơ chỉ là một biến cố (cơ duyên) phối hợp với nghiệp chín muồi của từng người để tạo ra một thứ quả trùng hợp cho tất cả.

 Khái niệm thứ hai liên hệ ít nhiều với nghiệp có thể cũng cần nêu lên, đấy là sự hồi hướng nghiệp lành hay công đức mà mình đã thực hiện được hướng vào người khác. Hồi hướng là một phép tu tập đặc thù của Phật giáo Đại thừa, thế nhưng ngày nay người ta thấy Phật giáo Nguyên thủy (Therevada) đôi khi cũng thực thi phép tu tập này, nhất là tại Thái lan và Miến điện. Vậy hồi hướng có mang lại hiệu quả hay không, có làm thay đổi được nghiệp của một cá thể khác hay không ?

 Trước hết sự hồi hướng sẽ mang lại cho người tu tập những xúc cảm sâu xa và một sức mạnh vô biên vì đấy là biểu hiện của lòng từ bi, điều kiện duy nhất là phải quyết tâm, thành thật và người tu tập đã thực hiện được những hành động hay phát lộ được những tư duy sâu xa mang lại những điều xứng đáng, có nghĩa là đã từng tạo được những nghiệp lành. Đối với đối tượng của sự hồi hướng tức là người khác, thì họ có tiếp nhận được những điều đạo hạnh mà người tu tập hồi hướng cho họ hay không ? Đối với Phật giáo Tây tạng thì câu trả lời rất dứt khoát là có. Nếu nhìn vào quy luật tương liên, tương kết của mọi hiện tượng, kể cả những hiện tượng phi-vật-chất trực tiếp liên quan đến sự vận hành của tâm thức thì cũng có thể hiểu rằng hành động hồi hướng nhất định phải mang lại một tác động nào đó. Tuy rằng tiếng vỗ tay của một bàn tay không gây ra tiếng vang, thế nhưng nếu đấy là một bàn tay ngữa ra để bố thí hoặc là một bàn tay đưa ra phía trước để che chở cho một chúng sinh gặp cảnh khốn cùng không phương tự vệ, thì biết đâu tiếng vỗ của một bàn tay cũng có thể vang ra tám phương trời mười phương Phật.

 Trên phương diện hoàn toàn duy lý thiết nghĩ cũng có thể suy ra hiệu quả của sự hồi hướng. Nghiệp không tượng trưng cho một định mệnh tuyệt đối mà luôn luôn tương tác và biến động dưới sự chi phối của quy luật tương liên. Vì thế trên nguyên tắc một sự tác động hổ tương giữa nghiệp của chủ thể hồi hướng và nghiệp của đối tượng hồi hướng cũng có thể xảy ra được, tất nhiên là với điều kiện các nghiệp ấy phải gặp được cơ duyên thích nghi để tương tác với nhau.

 Ngoài ra cũng có một chi tiết cần được nêu lên, theo kinh sách và sự tin tưởng thì sau khi chết một cá thể sẽ phải tái sinh trong vòng 49 ngày. Vậy thí dụ ta hồi hướng nghiệp lành cho cha mẹ mình đã chết từ lâu thì việc gì sẽ xảy ra ? Dù cho cha mẹ đã tái sinh và đã mang hình tướng khác dưới thể dạng của những thể loại chúng sinh khác, thì ta cứ hồi hướng cho các chúng sinh ấy như chính cha mẹ mình. Đó là một cách mở rộng lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh trong sáu cõi luân hồi. Trong sáu cõi ấy, mỗi chúng sinh đều có thể là cha hay mẹ của ta một lúc nào đó trong quá khứ. 

 Quá trình tiến hóa của khái niệm về nghiệp

 Trên đây là phần tóm lược các đặc tính căn bản của nghiệp mang tính cách "thực dụng" giúp vào việc tu tập, do đó chúng ta có thể cũng cần mở rộng thêm tầm nhìn để tìm hiểu sâu xa hơn về khái niệm này trong Phật giáo. Thật vậy trên dòng tiến hóa sinh học nếu tổ tiên con người được hình thành cách nay vài triệu năm tại phía đông lục địa Phi châu và sau đó lan tràn khắp địa cầu, thì thung lũng sông Hằng lại chính là nơi mà tôn giáo và các trào lưu tâm linh cũng như triết học lâu đời nhất của nhân loại đã được hun đúc và phát sinh.

 Ý niệm phôi thai về nghiệp hay karma thật ra phát sinh trước Phật giáo rất lâu trong thung lũng sông HHằng qua kinh Vệ-đà (khoảng giữa thế kỷ XVIII và XVI trước Tây lịch), kinh Rig-Veda (khoảng giữa thế kỷ XVIII và IX trước Tây lịch), kinh Bramana (khoảng giữa thế kỷ thứ X và VIII trước Tây Lịch), và sau đó là các kinh Upanisad tức các kinh Vệ-đà "cải tiến" (khoảng giữa thế kỷ thứ VII và thứ VI trước Tây lịch).

 Chữ karma đề cập trong các kinh sách vừa kể chỉ đơn giản có nghĩa là một hành động hiến sinh hay một hình thức lễ bái nhằm mục đích cầu xin cho cuộc sống của mỗi người được cải thiện hơn và xã hội được trật tự hơn. Nói cách khác karma trong các kinh sách này không mang một ý nghĩa luân lý hay triết học nào cả, nếu không thì đấy chỉ là bổn phận của tập thể con người trong xã hội và của các vị Bà-la-môn, tức là các vị giáo sĩ hướng dẫn và đại diện cho các tập thể đó, vì chỉ có các vị này mới nắm vững được các nghi thức cúng bái để đứng ra làm chủ tế các lễ hiến sinh.

 Suốt hơn mười thế kỷ toàn thể thung lũng sông Hằng chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng tạm gọi chung là đạo Bà-la-môn trên đây, chỉ trừ ra một lãnh thổ rộng lớn và khá biệt lập là xứ Ma-kiệt-đà (Magadha), ngày nay là tiểu bang Bihar của Ấn độ. Tuy lọt trong bối cảnh đó thế nhưng xứ Ma-kiệt-đà hầu như không hề chịu ảnh hưởng nặng nề của các tôn giáo trên đây. Tại lãnh thổ này vào khoảng thế kỷ thứ VI và V trước Tây lịch có ba tôn giáo vô thần được hình thành là Phật giáo, đạo Ja-in (Jaïnism) và đạo Ajivika và cả ba đều chủ trương khái niệm karma, tuy thế ý nghĩa của chữ này thì lại hoàn toàn khác biệt nhau giữa ba tôn giáo. Trong số các tôn giáo này chỉ có Phật giáo trở thành một tôn giáo lớn phát triển ra khỏi biên giới thung lũng sông Hằng và ngày nay đang bành trướng trên thế giới. Trong khi đó đạo Ja-in chỉ còn khoảng 12 triệu tín đồ trên toàn thể nước Ấn và đạo Ajivika thì đã mai một.

 Đạo Ja-in tin rằng bất cứ hành động nào cũng trở thành một nguyên nhân và bất cứ nguyên nhân nào cũng đều đưa đến tái sinh và khổ đau, không có một ngoại lệ nào cả. Vì thế đạo Ja-in chủ trương phải chận đứng tất cả mọi hành động phát sinh từ thân xác, ngôn từ và tâm thức, đấy là cách duy nhất ngăn chận không cho nguyên nhân phát sinh, vì nếu không tạo ra nguyên nhân thì hậu quả là sự tái sinh và khổ đau cũng sẽ không phát sinh. Do đó tu tập đối với đạo Ja-in là phải giữ cho thân xác bất động, chẳng hạn như đứng bằng một chân, hai tay chắp vào nhau và đưa thẳng lên trời, tuyệt đối phải giữ yên lặng ở thế bất động đó cho đến khi kiệt lực. Phép tu tập giữ cho thân xác bất động sẽ không tạo ra nghiệp mới, thế nhưng các nguyên nhân đã có từ trước thì vẫn còn, do đó phải hành xác để tinh khiết hóa các dấu vết tồn dư của nghiệp trong quá khứ. Đấy là nguyên tắc căn bản của phép tu tập của đạo Ja-in hầu giúp một cá thể tự giải thoát khỏi chu kỳ của sự hiện hữu.

 Ngược lại với đạo Ja-in, đạo Ajivika chủ trương không có một phương cách nào tránh khỏi sự tái sinh vì đấy là một hiện tượng tự nhiên, tất yếu, mang tính cách "máy móc", có nghĩa là một sự chuyển vận tự nhiên và tất yếu của sự sống. Dù giữ gìn đạo đức hay thực thi những điều kém phẩm hạnh thì cũng đều vô ích như nhau vì những hành động đó không gây ra một tác động nào đối với chu kỳ tái sinh của một cá thể. Đạo Ajivika chủ trương định mệnh (niyati) mang tính cách tuyệt đối, đấy là một động lực vận hành mang tính cách "cơ học" và chức năng của nó là thúc đẩy sự tái sinh hay luân hồi của một thể dạng sinh động gọi là linh hồn (tiếng Phạn jiva - the life-pinciple) thuộc "sự sống" tạm bợ này. Linh hồn (jiva) của một cá thể lệ thuộc vào số phận (niyati - destiny) của cá thể ấy, do đó không thể thay đổi hay cải thiện được. Tuy thế đạo Ajivika cũng cho rằng dòng luân hồi không mang tính cách bất tận mà chỉ kéo dài 84 000 kiếp sống, trên dòng luân hồi đó một cá thể sẽ được tự động tinh khiết hóa dần dần trong từng kiếp một cho đến lúc đạt được sự giải thoát vào kiếp cuối cùng. Sự tiến hóa (parinama) tự nhiên và tuần tự từ sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác tượng trưng cho một quá trình tinh khiết hóa nhằm "tẩy sạch" karma, bởi vì nghiệp bị một yếu tố "vật lý" mang "màu sắc" (lesya) làm cho ô nhiễm. Vì lý do ô nhiễm bởi "màu sắc" cho nên có tất cả năm thể loại cá thể (chúng sinh), mỗi loại cá thể mang một màu sắc khác nhau : đen, xanh, đỏ, vàng và trắng, tương quan với năm cấp bậc tinh khiết hóa : từ cõi địa ngục tối tăm cho đến cõi trong sáng của thể dạng giải thoát. Các giá trị đạo đức chỉ đơn giản là các "dấu hiệu" bên ngoài chứng tỏ cấp bậc tiến hóa của một cá thể trên dòng tái sinh, nhưng tuyệt nhiên không tham gia hay liên hệ gì đến quá trình tiến hóa qua các kiếp sống. Quan điểm cho rằng hành động không mang lại một hiệu quả nào và định mệnh mang tính cách tuyệt đối của đạo Ajivika hoàn toàn khác biệt và đối nghịch với giáo lý Phật giáo và cả với đạo Ja-in.

 Thế nhưng cả hai tôn giáo Ajivika và Ja-in đều chủ trương các phép tu tập khá giống nhau đấy là cách sống khổ hạnh và hành xác. Khổ hạnh đối với đạo Ja-in nhằm vào mục đích tẩy sạch nghiệp trong quá khứ, đối với đạo Ajivika là cách chứng tỏ giai đoạn thuộc các kiếp sống cuối cùng mà người tu tập sắp đạt được, tức là thời điểm sắp được giải thoát khỏi chuỗi dài của sinh tử. Cách sống trần truồng và khất thực của đạo Ajivika là để chứng tỏ người tu tập không còn màng gì nữa đến các giá trị xã hội của cuộc sống thế tục. Điểm tương đồng thứ hai là cả hai tôn giáo Ja-in và Ajivika đều chủ trương sự hiện hữu của một cái ngã (atman) hay linh hồn (jiva). Cái ngã hay linh hồn là một thực thể hay một chất liệu (dravya) có thật, mang tính cách trường tồn và sáng suốt, giúp bảo toàn một cá thể xuyên qua những thử thách của sự biến đổi là cái chết. Tuy không thuộc thành phần của thể xác thế nhưng cái ngã hay linh hồn có khả năng duy trì sự sống cho thân xác. Cũng xin nhắc thêm là đối với hai tín ngưỡng trên đây cái ngã hay linh hồn mang tính cách cá nhân tuyệt đối, khác với quan điểm của Ấn giáo xuất hiện sau này, vì Ấn giáo tin rằng cái ngã hay linh hồn (atman) của một cá thể chỉ là một phần nhỏ hay một đơn vị của một thể dạng linh hồn "tập thể" rộng lớn mang tính cách vũ trụ (paratman). Trên đây là phần trình bày sơ lược về nghiệp theo quan điểm của đạo Ja-in và đạo Ajivika, hai tín ngưỡng này hình thành gần như đồng thời với nhau và đã từng "cạnh tranh" với Phật giáo trong lãnh thổ Ma-kiệt-đà. Sau đây là quan điểm của Phật giáo về nghiệp.

 Khái niệm về nghiệp trong Phật giáo khác hẳn với quan điểm của hai tín ngưỡng trên đây. Đức Phật nêu lên khái niệm về nghiệp trong khuôn khổ của một nguyên tắc toàn cầu, đấy là quy luật tương liên và tương tạo, chi phối tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ (pratityasamutpada). Kinh sách gốc Hán gọi quy luật này là lý duyên khởi, ngôn ngữ Tây phương thì gọi là interdependence hay coproduction conditionnée, hay conditioned co-production (cũng có học giả đề nghị nên dịch là coproduction conditionnelle - conditioning co-production thì đúng hơn, thế nhưng cách dịch trước đây đã trở thành quen thuộc trong kinh sách Tây phương) . Lời giảng nổi tiếng sau đây của Đức Phật tóm lược thật minh bạch quy luật đó :

"Imasmim sati, idam hoti [bhavati];
imassuppâdâ, idam uppajjati.
Imasmim asati, idam na hoti;
imassâ nirodha, idam nirujjhati."
"Cái này có, cái kia hình thành;
Cái này hiển hiện, cái kia sinh ra.
Cái này không có, cái kia không hiển hiện;
Cái này đình chỉ (biến mất), cái kia không sinh ra."
 (Trung Bộ kinh, Majjhima-nikaya, III, trang 63)
 Câu trên đây là một trong những câu đơn giản nhất và đồng thời cũng thâm sâu nhất trong số các lời giảng huấn của Đức Phật, tuy hết sức đơn giản nhưng câu ấy đã giải thích trọn vẹn bản chất của vũ trụ này. Các nhà khoa học và các triết gia Tây phương đều vô cùng khâm phục ý nghĩa sâu xa hàm chứa trong câu nói thật đơn sơ trên đây.

 Thật vậy quy luật tương liên và tương kết cho thấy tất cả mọi hiện tượng đều mang tính cách cấu hợp, liên kết và lệ thuộc vào nhau để hiện hữu và biến động, dù đấy là những hiện tượng thuộc lãnh vực vật-chất hay phi-vật-chất, thuộc sự sống hay chỉ là vật chất đơn thuần. Trong bối cảnh chung của quy luật tương liên mang tính cách vũ trụ đó, karma hay nghiệp chỉ là một khía cạnh đặc thù, một trường hợp cá biệt liên quan mật thiết đến sự sống của chúng sinh (sattva) hàm chứa một thể dạng hay một cấp bậc tâm thức nào đó, đấy là các chúng sinh có giác cảm thuộc vào sáu cõi luân hồi (lục đạo). Kinh sách gốc Hán gọi đấy là các chúng sinh hữu tình, mặc dầu chữ hữu tình không được chính xác lắm và dễ gây ra hiểu lầm. Vậy một cách cụ thể phải hiểu nghiệp như thế nào ?

 Nghiệp là gì ?

 Xin nhắc lại nghiệp là một hành động thế nhưng phải hiểu rằng đấy không phải là một hành động bằng cử chỉ có thể quan sát được hay là một lời nói có thể nghe thấy được, mà đúng hơn là một tác động hay một xúc cảm xảy ra trong tâm thức. Một số kinh sách phân chia nghiệp thành ba loại là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, tuy nhiên cách phân loại này cần phải được giải thích thêm vì dễ gây ra hiểu lầm. Nghiệp trước hết là một tác ý (cetana) tức là một sự chủ tâm, một ý định, một ý muốn trong tâm thức, sau đó từ nghiệp tác ý mới sinh ra hành động (trên thân xác), ngôn từ và tâm ý (thuộc cơ quan tâm thần, thí dụ : mưu đồ, dự tính... phát sinh trong tâm thức). Tóm lại chỉ có hành động trên thân xác và ngôn từ là những biểu hiện của nghiệp "quan sát" được vì thuộc vào thế giới bên ngoài. Vì thế các thuật ngữ như tác ý (cetana), ý nghiệp (cetanakarma) hay tâm nghiệp (manakarma) đều chỉ định nghiệp thuộc lãnh vực tâm thần và mang ý nghĩa khá gần nhau. Bản chất tâm thần của nghiệp rất quan trọng vì sẽ giúp tìm hiểu sự chống đỡ và vận hành của nó trong tâm thức. Dưới đây xin trích dẫn bốn câu song hành đầu tiên trong kinh Pháp Cú cho thấy vai trò tiên khởi và chủ động của tâm ý tức là ý nghiệp hay tâm nghiệp :

"Mọi hiện tượng đều do tâm ý mà ra,
Tất cả đều sinh ra từ tâm ý.
Một người ăn nói và hành động với tâm ý xấu,
Khổ đau sẽ lăn theo người ấy như bánh xe lăn theo bước chân của con vật kéo xe.
Mọi hiện tượng đều do tâm ý mà ra,
Tất cả đều sinh ra từ tâm ý.
Một người ăn nói và hành động với tâm ý tinh khiết (tốt),
Hạnh phúc sẽ lăn theo người ấy như bánh xe lăn theo bước chân của con vật kéo xe".
 Tâm ý (tri thức) vừa là nơi phát sinh ra nghiệp cũng vừa là trung tâm phát tán của nghiệp. Ngôn từ và hành động trên thân xác chỉ là những cách phát lộ hay những phương tiện biểu lộ của tâm ý. Kinh A-tì-đạt-maAbhidharma - Luận tạng) phân loại nghiệp rất minh bạch : "ý nghiệp" là loại nghiệp khơi động (thúc đẩy) mang tính cách chủ động, "khẩu nghiệp" và "thân nghiệp" là các nghiệp bị thúc đẩy tức bị xui khiến bởi tâm ý, các nghiệp này mang tính cách lệ thuộc và "thụ động". Tác ý (cetana), ý nghiệp (cetanakarma) và tâm nghiệp (manakarma) đều mang bản chất chủ động, vì thế sự phân biệt ba "thể dạng" tâm thần này trở nên khá tế nhị, tuy nhiên với mục đích đơn giản hóa chúng ta có thể tạm xem sự khác biệt ấy thuộc vào lãnh vực thuật ngữ. Tóm lại nghiệp là một hành vi kích động của tâm thức hướng vào các phẩm tính hay các khuyết điểm của một đối tượng nào đó. (

 Thiết nghĩ cũng cần nhắc lại là tâm ý hay hành vi tâm thần hoàn toàn không lệ thuộc vào ý chí hay một sức mạnh bên ngoài mang tính cách thiêng liêng mà đấy chỉ là một hiện tượng tâm thần lệ thuộc vào những kinh nghiệm quá khứ và những xu hướng hay thói quen của một cá thể, tượng trưng cho một phản ứng mang tính cách đạo hạnh hay kém đạo hạnh. Tóm lại tác ý hay tâm ý (volition) là một phản ứng của một cá thể khi tiếp xúc với một đối tượng và đối tượng này khơi động lại những kinh nghiệm cảm nhận mà cá thể ấy đã có từ trước trong quá khứ đối với một đối tượng cùng loại.

 Trong bất cứ trường hợp nào, tâm ý hay hành vi tâm thần tức là tác ý hay nghiệp luôn luôn kết nối với sự cảm nhận về cái tôi hay cái ngã đứng phía sau mọi ý nghĩ và hành động. Nói cách khác nghiệp được định nghĩa như một hành vi mang nặng hậu ý của một cái ngã làm chủ thể cho hành vi ấy. Dưới một góc nhìn nào đó nghiệp có thể xem là một phương cách gián tiếp biểu lộ cái tôi và xác định sự hiện hữu vững chắc của nó. Sự cảm nhận cái tôi ấy là biểu hiện của vô minh và vô minh thì lại là động lực tất yếu đưa đến sự tái sinh.

 Sự tạo nghiệp

 Phần trình bày trên đây cho thấy tác động và sự vận hành của nghiệp như thế nào, vậy chúng ta thử tìm hiểu thêm xem cơ sở nào hay chức năng nào đã làm phát sinh ra các tác động tạo nghiệp trên đây ? Để trả lời cho câu hỏi này cần phải nhờ đến khái niệm về ngũ uẩn (panca skandha) tức là năm thứ cấu hợp tạo ra cá thể con người. Trong số ngũ uẩn thì uẩn thứ tư gọi là hành (samskara) là uẩn giữ chức năng tổng kết và diễn đạt các giác cảm. Chữ samskara gồm có hai vần : vần thứ nhất là sam có nghĩa là sự kết hợp (tiếng Hy lạp là Syn- , tiếng La tinh là Cum-, tiếng Pháp và Anh là Con-), vần thứ hai là kra và cũng là vần tạo ra chữ karma. Do đó các ngôn ngữ Tây phương dịch chữ samskara là formation karmique, formation volitionnelle, facteurs de composition, forces concrétisantes du karma, mental formation impulses, v.v..., một cách vắn tắt các cụm từ ấy có nghĩa là sự tạo nghiệp. Mạn phép dài dòng như trên đây vì chữ hành trong kinh sách tiếng Việt không diễn tả được đầy đủ ý nghĩa của chữ samskara. Vậy samskara hay sự tạo nghiệp thật sự là gì ?

 Samskara hay uẩn thứ tư gồm có 49 yếu tố tâm thần, chẳng hạn như : ham muốn, ganh tị, hiểu biết, bám víu, giận dữ, sao lãng, đờ đẫn, hối hận, lý luận, v.v. và v. v. Tập A-tì-đạt-ma tập luận (Abhidharma-samuccaya) của Vô Trước (Asanga) có liệt kê đầy đủ các yếu tố này. Riêng Phật giáo Tây tạng thì đưa ra một danh sách gồm đến 51 yếu tố. Đấy là các yếu tố hay nhân tố tâm thần nối kết tri thức (consciousness) với đối tượng mà nó cảm nhận được, nói cách khác đấy là sự diễn đạt của tri thức khi tiếp xúc với một đối tượng nào đó. Sự diễn đạt này tạo ra một xu hướng hay xung năng thúc đẩy dưới hình thức một tác ý (volition) phát sinh trong tâm thức. Tác ý ấy liên quan đến các thói quen và phản ứng có sẵn trong "tiềm thức" của một cá thể nhằm khích động hay xui khiến cá thể ấy thực thi một hành động nào đó mang tích cách tích cực, tiêu cực hay trung hòa. Năng lực thúc đẩy hay khích động trên đây liên hệ mật thiết với nghiệp trong quá khứ, đồng thời cũng nhất thiết phù hợp với tác ý của cá thể ấy. Năng lực thúc đẩy đưa đến tác ý và hành động đều thuộc vào một thể loại chung tức có cùng một bản chất như nhau : hoặc tích cực, tiêu cực hay trung hòa.

 Để cụ thể hóa cách trình bày bao quát và trừu tượng trên đây xin đơn cử một một thí dụ như sau. Người ta thường nói đến một hiện tượng si mê hay đam mê gọi là "tiếng sét ái tình" xảy ra một cách đột ngột đối với một cá thể hay chung cho hai cá thể, hoặc khác phái hoặc đồng tính khi họ gặp nhau. Tác động gây ra tiếng sét "ái tình" thuộc vào chức năng diễn đạt của samskara, tức cấu hợp thứ tư trong ngũ uẩn. Tiếng sét ấy là xung năng của nghiệp lực ghi khắc trên dòng tri thức của cá thể ấy phù hợp với đối tượng là một cá thể khác. Nếu một cá thể nào đó bị "giáng cho một cú" thì đấy là quả do nghiệp từ trước đã chín muồi và gặp được cơ duyên. Cú sét có thể bị "tịt ngòi" và trong trường hợp này cá thể có thể bị khổ sở, đau buồn, nhớ nhung... nôm na là "thất tình", hoặc có thể được "thỏa mãn" trong nhất thời sau đó thì sinh con đẻ cái, hạnh phúc "lâu bền", hoặc cũng có thể phía sau tiếng sét đó là khổ đau, là những trận cãi vã, kể cả những xung khắc nặng nề... Nghiệp có thể "rất lớn" và "lan rộng", thế nhưng khi khởi sự thì chỉ là "một tia chớp" tức là một tác ý (cetana) phát sinh từ một vết hằn trong tâm thức (nghiệp) khi nó bị một đối tượng bên ngoài (cơ duyên) "châm ngòi".

 Tóm lại những gì vừa trình bày trên đây cho thấy nghiệp mang hai sắc thái khác biệt nhau và có thể xem là đối nghịch với nhau nữa: nghiệp vừa là một hành vi lệ thuộc, tức phải gánh chịu sự chi phối của tác ýcetana), vừa tượng trưng cho một hành động tâm thần mang tính cách chủ động (samskara), tức là hành động bám víu - tiêu cực hay tích cực - hướng vào đối tượng cảm nhận xuyên qua các xung năng phát sinh từ các hành vi trong quá khứ. (

 Trong một bài viết của Philippe Cornu (Une petite histoire du Karman en Inde, Les Cahiers bouddhiques N°6, Université Bouddhique Européenne, 2011, trang 46), nhà học giả Phật giáo lỗi lạc này đã giải thích rất rõ hai đặc tính trên đây của nghiệp bằng cách dùng các chữ bị trói buộc hay bị quy định (conditionné - conditioned) để giải thích tính cách lệ thuộc của tác ý, và chữ quy định hay tạo điều kiện (conditionnant - conditioning) để giải thích tính cách chủ động của nghiệp. Tóm lại nghiệp thể hiện dưới hai thể dạng khác biệt nhau : thể dạng thứ nhất là một tác ý (cetana) mang tính cách lệ thuộc (conditioned) phát sinh từ những thói quen và xu hướng do nghiệp trong quá khứ khơi động, thể dạng thứ hai là một tác động (samskara) hàm chứa khả năng tạo dựng, thiết kế hay thực hiện một cái gì đó (conditioning).

 Đức Phật cũng đã giải thích rất tường tận sự khác biệt giữa hành động tiên khởi giữ vai trò nguyên nhân thúc đẩy (chủ động) và sự phát hiện sau đó của hậu quả (phala) khi nguyên nhân đã trở thành "chín muồi" (thụ động). Hậu quả có thể xảy ra trong tức khắc hoặc hoãn lại trong một thời gian lâu dài hơn, dù sao thì sự chín muồi đó không phải là một phần thưởng cũng không phải là một thứ hình phạt mang tính cách thiêng liêng. Thể dạng "chín muồi" ấy chỉ là giai đoạn cuối cùng (quả) của một quá trình diễn tiến tự nhiên của một năng lực tồn dư phát sinh từ một hành động trước đó (nhân).

 Sau đây là một đoạn ngắn trích dẫn từ một bài viết của Mahathera Narada (1898-1993) trong một quyển sách do học giả René de Berval làm chủ biên, gom góp các bài viết bằng Pháp ngữ hoặc đã được dịch sang Pháp ngữ của một số học giả và triết gia Phật giáo nổi tiếng nhất của tiền bán thế kỷ XX trên toàn thế giới. Sách được xuất bản tại Sài gòn năm 1959 để kỷ niệm lễ Phật đản thứ 2500, tái bản lần thứ nhất tại Pháp năm 1987, và lần thứ hai năm 2008. Mahathera Narada viết như sau:

 "Hân hoan hay khổ đau là số phận chung của nhân loại, đấy là hậu quả không tránh khỏi của một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Đối với quan điểm của Phật giáo, đấy không phải là một phần thưởng hay một sự trừng phạt do một sức mạnh thống trị siêu nhiên và toàn năng phân phát cho một linh hồn đã thực hiện được một việc tốt hay xấu. Những người theo các tôn giáo hữu thần chỉ tìm cách giải thích tất cả mọi thứ trong cuộc sống hiện tại và cuộc sống tương lai, nhưng lại mù tịt những gì thuộc về quá khứ. Họ tin vào một thứ công lý sau khi chết (post mortem) và xem những phút hân hoan hay đau khổ trong hiện tại là sự ban thưởng hay trừng phạt do một vị Trời tối thượng, siêu nhiên và toàn năng ban xuống cho họ, sau khi họ được sáng tạo [làm người]. Phật giáo không chấp nhận một vị Trời sáng tạo như thế, và chỉ tin vào một quy luật tự nhiên và một nền công lý tự nhiên, diễn tiến một cách vững chắc và vận hành một cách tự nhiên. Các vị trời, chư Phật hay con người, không một ai có thể chận đứng dù chỉ tạm thời sự vận hành của quy luật đó. [...] Thế nhưng giáo lý nhà Phật về nghiệp không hề đưa ra một cái nhìn khôi hài mang tính cách số mệnh đại loại như : "Bạn sinh ra nghèo đói, chẳng qua vì nghiệp của bạn xấu. Bạn sinh ra giàu có, ấy là nhờ nghiệp của bạn tốt. Vậy bạn hãy an phận với phần số của bạn đi và cố gắng làm điều tốt để kiếp sau được giàu có". Đức Phật vô cùng từ bi không thuyết giảng quy luật về nghiệp để bào chữa cho người giàu và an ủi người nghèo bằng cách hứa hẹn một niềm hạnh phúc phù du trong kiếp sau".

(Mahathera Narada - La doctrine du Kamma, Présence du Bouddhisme, chủ biên René de Berval, Gallimard, tái bản lần thứ hai, 2008, trang 139).

 Những gì vừa trình bày trên đây cho thấy tác ý phát sinh từ vết hằn của nghiệp như thế nào và sau đó hành động được phát sinh từ tác ý ra sao. Vậy chúng ta thử trở ngược xa hơn các quá trình này để tìm hiểu vết hằn của nghiệp đã được ghi khắc như thế nào và đã được chuyển tải ra sao trước khi trở thành tác ý và hành động. Nếu muốn tìm hiểu các vấn đề này thì trước hết phải nắm vững tri thức (consciousness) là gì? 

 Dòng lưu chuyển của tri thức là gì?

 Theo quan điểm Phật giáo tri thức là tác động tâm thần mang lại sự hiểu biết (acte de connaissance - act of knowledge). Sự sinh hoạt của tri thức gồm có nhiều tác động nối tiếp nhau, mỗi tác động tượng trưng cho một "đơn vị" cảm nhận thật ngắn, xảy ra thật nhanh, tương tợ như hình ảnh của một đoạn phim chiếu trên màn ảnh. Sự xuất hiện và biến mất liên tục của các hình ảnh rời rạc tạo ra sự chuyển động, đối với một đoạn phim thì tốc độ là 24 hình ảnh tiếp nối nhau trong một giây, hoặc cũng có thể so sánh với một máy chụp ảnh kỹ thuật số mà người ta có thể sử dụng để chụp từng tấm ảnh một hoặc ghi liên tục nhiều hình ảnh liên tiếp để tạo ra một đoạn phim. Tóm lại tri thức là một dòng chảy liên tục ghi nhận nhiều hình ảnh nối tiếp nhau.

 Do đó có thể định nghĩa tri thức như một dòng tiếp nối liên tục (continuum) của những khoảnh khắc hiểu biết. Các khoảnh khắc tiếp nối của tri thức thường được xem như những đơn vị hiểu biết, do đó tri thức là một cấu hợp, vì thế nó cũng vô thường và mang tính cách lệ thuộc như tất cả các hiện tượng hay những thứ cấu hợp khác. Mỗi đơn vị hiểu biết dù cho thuần nhất đi nữa thì nó vẫn lệ thuộc vào đơn vị trước nó và đồng thời làm nguyên nhân tạo ra điều kiện cần thiết để làm phát sinh ra đơn vị hiểu biết xảy ra sau nó. Là một cấu hợp nên dòng tiếp nối liên tục đó tự luân lưu khi hội đủ một số điều kiện cần thiết.

 Phật Âm (Buddhagosa, thế kỷ thứ IV) một đại luận sư của học phái Thượng Tọa bộ (thuộc Phật giáo Nguyên Thủy Therevada) có viết như sau trong tập Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) (Bản dịch tiếng Pháp : Le chemin de la Pureté, Fayard, 2002, trang 668) để giải thích nguyên nhân làm phát sinh ra dòng lưu chuyển của tri thức : "Chẳng có một vị trời nào hay một vị Brahma (thượng đế của Ấn giáo) nào tạo ra dòng chuyển động liên tục đó ; đơn giản đấy chỉ là những nhân tố hiển hiện khi hội đủ một số điều kiện [cần thiết]". Tóm lại tri thức là một cấu hợp vô thường, luân lưu như một dòng chảy khi hội đủ một số điều kiện nhất định. Vì thế tri thức nhất thiết không phải là một linh hồn trường tồn do một sức mạnh thiêng liêng sáng tạo. Tri thức có thể hoạt động rất tốt biểu hiện cho trí thông minh hoặc kém bình thường làm phát sinh những sự rối loạn mà người ta gọi là bệnh tâm thần.

 Ngoài ra tri thức (vijnana) còn được định nghĩa là cấu hợp thứ năm của ngũ uẩn (vijnana-skandha). Cũng xin nhắc lại là một cá thể được hình thành từ sự kết hợp của năm thứ cấu hợp gọi là uẩn : uẩn thứ nhất là cấu hợp vật chất (thân xác) và bốn uẩn còn lại tương trưng cho bốn chức năng sinh hoạt của tri thức tạo ra tâm thần. Cấu hợp tri thức tức uẩn thứ năm là biểu hiện của sự nhận biết cao nhất tức là khoảnh khắc nhận thức minh bạch một đối tượng căn cứ vào sự cảm nhận toàn bộ của bốn uẩn khác. Hầu hết các học phái xưa như Tì-bà-sa luận (Vaibhasika), Kinh lượng bộ (Sautrantika), Cụ duyên tông (Prasangika)...và một số các tông phái Đại thừa quan niệm rằng cấu hợp tri thức (vijnana) gồm có sáu thể loại tri thức như sau :

 1- tri thức thị giác (caksurvijnana)

 2- tri thức thính giác (srotravijnana)

 3- tri thức vị giác (ghranavijnana)

 4- tri thức khứu giác (jihvavijnana)

 5- tri thức xúc giác (kayavijnana)

 6- tri thức tâm thần (manovijnana)

 Năm tri thức đầu tiên là các tri thức giác cảm giữ vai trò cảm nhận các đối tượng thuộc thế giới bên ngoài (ngoại cảnh). Các loại cảm nhận này mang tính cách phiến diện và rời rạc, tương tợ như trường hợp năm người mù sờ con voi. Tri thức thứ sáu là tri thức tâm thần (manovijnana) giữ vai trò tiếp nhận, phối kiểm và tổng kết các cảm nhận rời rạc trên đây để tạo ra một tổng thể hiểu biết có tính cách mạch lạc hơn (toàn bộ hình tướng một con voi), giúp một cá thể mở rộng sự nhận thức của mình đối với thế giới nên ngoài. Tri thức này còn được gọi là mạt-na thức hay tri thức (consciousness) theo định nghĩa của người Tây phương. Tóm lại thế giới mà một cá thể nhận thức hay hình dung trong tâm thức tùy thuộc vào sáu thể loại tri thức trên đây. Đồng thời, cái "thế giới" hiện ra với từng cá thể hoàn toàn mang tính cách chủ quan. Nhờ vào giáo dục (học hỏi) và tính cách quy ước của ngôn từ mà mọi người hình dung ra thế giới "giống nhau", thế nhưng trên thực tế mỗi người nhìn thấy thế giới "hoàn toàn khác nhau" vì cái nhìn ấy bị ảnh hưởng bởi giáo dục, sự bén nhạy của các cơ quan giác cảm và nghiệp lực chi phối tâm thức của mỗi cá thể.

 Vết hằn của nghiệp

 Mỗi khoảnh khắc hiển hiện trong tri thức tương quan và liên kết với đối tượng do nó cảm nhận được và đồng thời lệ thuộc vào những kinh nghiệm quá khứ tồn lưu trong tri thức. Các kinh nghiệm quá khứ tô thêm "màu sắc" cho đối tượng cảm nhận, tức có nghĩa là ghép thêm vào sự cảm nhận của tri thức một số "xúc cảm" nào đó. "Màu sắc" hay "xúc cảm" tô thêm và ghép thêm vào sự cảm nhận của tri thức liên hệ trực tiếp đến các vết hằn (cetana) của quá khứ. Xin trở lại thí dụ về "tiếng sét ái tình", "tiếng sét" là kết quả phát sinh từ sự diễn đạt của tri thức khi nó góp nhặt và tổng kết các cảm nhận của giác cảm (hình dáng, tóc tai, mặt mũi, cử chỉ, giọng nói, v.v... của đối tượng cảm nhận) và sau đó thì ghép thêm vào các sự cảm nhận ấy các xúc cảm và màu mè phát sinh từ nghiệp trong quá khứ. Vì thế các sự cảm nhận và diễn đạt đó mang tính cách chủ quan rõ rệt, nói cách khác là một cá thể "nhìn" các đối tượng xuyên qua cái tôi hay cái ngã của mình, tương tợ như chúng ta "nhìn" thế giới xuyên qua các lăng kính của một ống nhòm, các lăng kính của ống nhòm tượng trưng cho các xu hướng hay xung năng tâm thần tức là các nhân tố phát sinh từ các vết hằn của nghiệp.

 Tóm lại nghiệp lưu lại các dấu vết trên dòng tiếp nối liên tục của tri thức. Tuy mỗi khoảnh khắc tạo ra dòng tiếp nối của tri thức được xem như một "đơn vị", thế nhưng bản chất của từng "đơn vị" vẫn là một sự cấu hợp (lệ thuộc vào đơn vị trước đó và tạo ra các điều kiện làm phát sinh ra đơn vị tiêp theo sau, và đồng thời cất chứa vô số vết hằn của nghiệp), vì thế mỗi đơn vị và toàn bộ tri thức đều mang bản chất vô thường tức luôn luôn biến động. Nghiệp được ghi khắc hay tồn dư trong từng đơn vị tri thức dưới thể dạng các vết hằn (cetana) và tự nó cũng chuyển động theo với dòng tri thức, tức phát triển trong từng khoảnh khắc để trở thành thể dạng chín muồi một lúc nào đó. Tuy nhiên quá trình chín muồi đó cũng có thể tạm thời diễn tiến "chậm lại", hoặc bị "chận đứng" trong một thời gian, hoặc cũng có thể hoàn toàn bị hóa giải, tất cả đều tùy thuộc vào tác động của những nghiệp khác có sẵn hoặc sẽ phát sinh sau đó trên dòng lưu chuyển không ngưng nghỉ của tri thức.

 Các quan điểm khác về nghiệp

 Trên đây là cách giải thích tác động của nghiệp và sự vận hành của tri thức theo quan điểm của các học phái Nguyên thủy (tức các học phái xưa) và một số học phái Đại thừa. Thế nhưng hai học phái Duy thức (Yogakara-Cittamatra) và Trung quán - Duy thức tông (Yogakara-madhyamika) là hai học phái Đại thừa nghiêng nhiều về triết học nhất là tâm lý học, lại còn đi xa và chi tiết hơn. Trong Nhập Lăng-già kinh (Lankavatarasutra) và trong các tập luận của Vô Trước (Asanga, sinh vào thế kỷ thứ IV) và của người em là Thế Thân (Vasubandhu), người ta thấy tri thức (consciousness) được chia làm tám thể loại, có nghĩa là ngoài sáu thể loại tri thức tạo ra một tổng thể tri thức chung (vijnana) theo cách mô tả trong Luận Tạng (Abhidharma), còn có hai thể loại tri thức khác nữa là : tri thức ô nhiễm (klistamanas) mà kinh sách gốc Hán gọi là nhiễm tâm, và tri-thức-căn-bản-của-tất-cả (alayavinana) dịch âm là a-lại-da thức. Kinh sách Hán ngữ dịch chữ alayavinana là tàng thức, có nghĩa là tri thức cất chứa tất cả. Thật ra hai cách phân chia tri thức thành sáu và tám thể loại trên đây không gây ra một sự mâu thuẫn nào, sở dĩ có sự khác biệt là do hai cách giải thích khác nhau về sự vận hành của tri thức, cách giải thích bằng tám thể loại có phần chi tiết và tinh tế hơn so với cách giải thích bằng sáu thể loại.

 Vậy tri thức thứ bảy và thứ tám trong kinh Lăng-già và học phái Duy thức của Vô Trước và Thế Thân là gì ? Tri thức thứ bảy hay nhiễm tâm (klistamanas) cũng có khi được gọi là mạt-na thức là thể loại tri thức làm phát hiện sự cảm nhận về cái tôi hay cái ngã luôn luôn "ẩn nấp" phía sau mọi sự nhận thức với tư cách là một chủ thể đứng ra nhận thức. Thế nhưng cái tôi hay cái ngã thật ra chỉ là ảo giác và không hề hiện hữu, do đó sự cảm nhận của tri thức thứ bảy là một sự sai lầm, và đấy là lý do giải thích tại sao lại gọi tri thức thứ bảy là tri thức ô nhiễm.

 Tri thức thứ tám gọi là a-lại-da thức nguyên nghĩa tiếng Phạn là tri-thức-căn-bản-của-tất-cả và cũng là tri thức quan trọng hơn hết. Với mục đích đơn giản hóa cho dễ hiểu có thể tạm so sánh a-lại-da thức với tiềm thức (subconscious) trong khoa Tâm lý học hiện đại. A-lại-da thức là nền tảng chống đỡ và cất chứa các vết hằn của nghiệp, tượng tợ như tầng hầm của một căn nhà dùng để cất giữ tất cả những gì chưa cần dùng đến ngay. Tuy nhiên a-lại-da thức không phải chỉ giữ chức năng cất chứa những tồn tích từ các cảm nhận của một cá thể mà còn ghi khắc các xu hướng và xung năng phát sinh từ những tồn tích ấy dưới dạng những vết hằn. Các vết hằn tiếp tục sinh hoạt, thăng tiến và tương tác với nhau một cách kín đáo trong a-lại-da thức và bất chợt vọt lên trên và ra khỏi a-lại-da thức bất cứ lúc nào để trở thành các chủng tử (vasana) làm phát sinh ra tác ý (cetana). Tác ý tham gia vào sự sinh hoạt của tri thức thông thường (vijnana) để đưa đến các hành động tạo nghiệp (karma).

 Hãy trở lại với sáu tri thức thứ nhất. Năm tri thức đầu tiên lệ thuộc vào sự bén nhạy của năm cơ quan giác cảm. Các cơ quan này ghi nhận các "cảm giác" khi tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài, tiếp theo đó tri thức thứ sáu tức tri thức tâm thần (manovijnana) sẽ phối kiểm, kết hợp và diễn đạt các cảm giác ấy. Sự hoạt động của tất cả sáu thể dạng tri thức trên đây lệ thuộc vào các đối tượng của ngoại cảnh do đó sự sinh hoạt của chúng mang tính cách "thô thiển" và "giai đoạn" tức không thường xuyên và liên tục. Thí dụ đối với trường hợp một người mù thì thị giác bị hỏng và tri thức thị giác không hoạt động. Trái lại sự sinh hoạt của tri thức thứ bảy và thứ tám luôn luôn sinh động. Trong giấc ngủ, các cơ quan giác cảm kể cả tri thức thứ sáu không hoạt động, thế nhưng tri thức thứ bảy và thứ tám vẫn hoạt động bình thường không ngưng nghỉ, vì thế những gì xuất hiện trong giấc mơ chỉ là những hình ảnh tâm thần tức không liên hệ với các đối tượng thuộc bối cảnh bên ngoài. Kể cả trong giấc ngủ thật sâu hoặc những lúc hôn mê (coma) tri thức thứ bảy và thứ tám vẫn tiếp tục hoạt động, nhờ đó thân xác không trở thành một xác chết và khi tỉnh lại ta vẫn nhớ được những gì trước khi ngủ. Tóm lại tri thức thứ bảy là một thể dạng tri thức làm nhịp cầu trung gian liên kết sự sinh hoạt của tri thức thứ sáu mang tính cách nhất thời và thứ tám mang tính cách thường xuyên.

 Tri thức thứ bảy là một thể dạng tri thức bấn loạn làm hiển lộ cái ngã. Sự hoạt động vô minh của nó trực tiếp liên kết với a-lại-da thức vì thế nó cũng gây ra ô nhiễm cho a-lại-da thức bằng cách để lại dấu tích của một cái tôi do chính nó làm phát lộ và cả các vết hằn của nghiệp phát sinh từ sự diễn đạt của tri thức thứ sáu. Sự sinh hoạt của a-lai-da thức mang tính cách thường xuyên và liên tục và nhờ đó mà a-lại-da thức đã giữ vai trò chuyển tải các vết hằn của cái tôi và của các nghiệp khác từ kiếp sống này sang kiếp sống khác. Nói cách khác a-lai-da thức là một thể dạng tri thức luôn luôn năng hoạt, tiềm ẩn và sâu kín, nối liền cái chết và sự tái sinh và mang theo với nó tất cả các dấu vết của nghiệp. Tóm lại chức năng của tri thức thứ bảy là làm hiển lộ cái tôi tức là một biểu hiện của vô minh, một thứ vô minh tuy tối tăm nhưng lại mạnh mẽ nhất trói buộc một cá thể trong vòng luân hồi. Vậy nghiệp và luân hồi liên quan với nhau như thế nào ?

 Nghiệp và luân hồi

 Trong số trùng trùng điệp điệp những mối dây liên kết và buộc chặt mọi hiện tượng trong vũ trụ qua quy luật tương liên và tương kết (pratityasamutpada) Đức Phật đã chọn ra mười hai mối dây kết nối nhau (dvadasanga pratityasamutpada) trực tiếp liên quan đến các chúng sinh có giác cảm, có nghĩa là trong số này có cả chúng ta. Sự hiện hữu của chúng ta là một chuỗi dài tiếp nối giữa nguyên nhân và hậu quả : nguyên nhân này sinh ra hậu quả kia, hậu quả kia lại sinh ra nguyên nhân khác, (chữ lý duyên khởi trong kinh sách Hán ngữ dùng trong trường hợp này rất phù hợp, thế nhưng nếu dùng để chỉ một thể dạng bao quát hơn tức là sự tương liên giữa mọi hiện tượng - pratityasamutpada - thì không được thích nghi lắm). Chuỗi tiếp nối đó biểu hiện những hành động (nghiệp) của chúng ta trong quá khứ và trong hiện tại, và đồng thời tạo ra các nguyên nhân mới đưa đến sự hiện hữu của chúng ta trong tương lai. Chuỗi dài tiếp nối của mười hai "nút thắt" hay mối dây nhân-quả (nidana) đó gọi là thập nhị nhân duyên và thường được tượng trưng bằng một bánh xe gọi là bánh xe luân hồi, bánh xe của sự sống, bánh xe của sự hiện hữu, bánh xe xoay vần của nghiệp lực,v.v..., tiếng Phạn là bhavacakra.

 Vòng ngoài cùng của bánh xe luân hồi (bhavacakra) được tượng bằng 12 hình ảnh (xem hình). Tuy nhiên trong khuôn khổ tìm hiểu sự vận hành của nghiệp đưa đến sự tái sinh thì chúng ta chỉ cần quan tâm đến ba mối dây nhân-duyên (nidana) đầu tiên cũng đủ giải thích tại sao chúng ta lại đang hiện hữu trong cảnh huống như thế này. Ba mối dây ấy như sau :

 vongluanhoi-nghiep

Bánh xe của sự hiện hữu trói buộc
(tượng trưng cho thế giới ta-bà)
 1- Vô minh (avidya) : là mối dây thứ nhất, tựng trưng bởi một người mù đang chống gậy (hình phía dưới bên trái). Đó là khởi điểm của tất cả mọi thứ nghiệp, tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết về Tứ Diệu Đế và không thấu triệt bản chất của sự hiện hữu là gì. Kinh sách gọi sự thiếu hiểu biết và không thấu triệt ấy là vô minh tự tại (sahajavidya), Đức Đạt-Lai Lạt-Ma thì gọi đấy là vô minh nguyên thủy. Đấy là một thể dạng hoang mang và xao lãng tâm thần khiến ta không nhìn thấy bản chất đích thực của chính mình. Dưới sự chi phối của thể dạng vô minh đó ta không nhận ra bản chất ảo giác của mọi hiện tượng và nhất định cho chúng là thật, và từ sự lầm lẫn hay vô minh đó ta tưởng tượng ra một "cái tôi" làm chủ thể để nắm bắt các hiện tượng ảo giác ấy. Sự "tưởng tượng" đó phát sinh từ sự sinh hoạt của tri thức thứ bảy (klistamanas) và khiến cho tri thức thứ tám là a-lai-da thức bị ô nhiễm. Sự ô nhiễm gây ra bởi "cái tôi" ảo giác trong a-lại-da thức chính là nguyên nhân nguyên thủy đưa đến sự tái sinh.

 2- Sự tạo nghiệp (samskara): là mối dây thứ hai trong thập nhị nhân duyên gọi là hành tiếng Phạn là samskara, tức có nghĩa là sự tạo nghiệp, và đấy cũng là chức năng diễn đạt của cấu hợp thứ tư hay uẩn thứ tư (cũng gọi là samskara) trong ngũ uẩn đối với các cảm nhận của ngũ giác. Mối dây tạo nghiệp được tượng trưng bởi một người thợ đồ gốm (hình ảnh thứ hai sau người mù, nhìn theo chiều kim đồng hồ) đang nắn một cái bình bằng đất sét đặt trên một bàn quay. Hình ảnh nhào nặn tượng trưng cho xung năng hay xu hướng phát sinh từ nghiệp trong quá khứ, thúc đẩy người thợ đố gốm nặn ra một cái bình phù hợp với xung năng của mình. Hành động nắn một cái bình tượng trưng cho ý chí hay ý định tức là tác ý trong tâm thức. Hành động đó vừa lệ thuộc vào nghiệp lại vừa mang tính cách chủ động (hai khía cạnh này của nghiệp cũng đã được trình bày trong phần trên đây).

 3- Tri thức (vijnana) : là mối dây thứ ba tượng trưng bởi một con khỉ trèo trên cây (hình thứ ba, sau người thợ đồ gốm), nhảy từ cành này sang cành khác, vừa buông quả này lại với đến quả kia. Đấy là hình ảnh tượng trưng cho sự đòi hỏi, ham muốn đưa đến sự "nhận biết" về thế giới này dưới sự chi phối và kiềm tỏa của nghiệp. Đấy là thể dạng tri thức gắn liền với sự tái sinh hàm chứa những xung năng của nghiệp trong kiếp sống trước. Do đó tri thức là mối dây kết nối giữa các sự hiện hữu với nhau, từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, và tượng trưng cho một dòng tiếp nối liên tục (continuum).

 Tóm lại vô minh (avidya) đưa đến tạo nghiệp (samskara), tạo nghiệp tạo ra tri thức (vijnana). Tri thức đồng thời cũng là chức năng của uẩn thứ tư trong ngũ uẩn giữ vai trò diễn đạt mọi sự cảm nhận tạo ra tình trạng tâm thần hay tâm thức của chúng ta trong cảnh huống hiện tại.

 Kinh Pháp Cú bắt đầu bằng hai câu sau đây :

« Mọi hiện tượng đều do tâm ý mà ra,
Tất cả đều sinh ra từ tâm ý..."
 Vì thế nên sự diễn tiến của ba mối dây đầu tiên trong thập nhị nhân duyên xảy ra như sau : vô minh (1) sinh tạo nghiệp (2), tạo nghiệp (2) sinh tri thức (3), và tri thức (3) (consciousness) chính là tâm thần (mental) hay tâm thức (spirit) mà chúng ta đang có trong lúc này, nói cách khác đấy vừa là căn nguyên vừa là nền móng của sự hiện hữu của chính chúng ta trong hiện tại. Kinh sách gọi chung ba mối dây ấy là các yếu tố phóng tưởng hay tạo dựng (projective factors - tiếng Phạn : aksepakanga) tạo ra cảnh huống quy định cuộc sống hiện tại của mỗi chúng ta và đồng thời chuẩn bị tạo ra cảnh huống mới cho các kiếp sống tiếp theo. Tóm lại nghiệp không nhất thiết là những gì thuộc quá khứ mà thật ra còn là những hành động đang xảy ra trong từng giây phút của hiện tại để góp phần vào việc kiến tạo tương lai.

 Sự tiếp nối của nghiệp qua các kiếp sống

 Sau hết xin nêu lên một khía cạnh khá "gai góc" nếu không muốn nói là "nghịch lý" liên quan đến khái niệm về nghiệp. Đó là cái "cảm giác" của một cá thể trong kiếp sống hiện tại phải nhận chịu hậu quả phát sinh từ một hành động do một "cá thể khác" đã thực thi trong kiếp sống trước. Vậy phải nhìn vấn đề này như thế nào ?

 Xin nêu lên hai giả thuyết như sau :

 1- Nếu một cá thể (pugala) nào đó thực thi một hành động và sau đó cũng chính cá thể ấy "đầu thai" để nhận lãnh hậu quả phát sinh từ hành động trước đó của nó thì trong trường hợp này sẽ không có gì biến đổi hay thay đổi giữa hai kiếp sống : "cái tôi" hay "cái ngã" đương nhiên trở thành trường tồn và bất biến và mang tính cách hoàn toàn cá thể.

 2- Nếu có một cá thể thực thi một hành động và lại có một cá thể khác, hoàn toàn ngoại lai không liên hệ gì với cá thể thực thi hành động trước đây phải đứng ra nhận lãnh hậu quả của hành động ấy, thì trong trường hợp này sẽ xảy ra một sự nghịch lý hay phi lý đối với quy luật tương liên và tương tác giữa mọi hiện tượng (pratityasamutpada, interdependence hay lý duyên khởi), bởi vì cá thể hành động và cá thể nhận lãnh hậu quả không liên hệ gì với nhau, mỗi cá thể tượng trưng cho một sự chấm dứt trọn vẹn. Đó là một cách phá vỡ cấu trúc của hiện thực, tức không tôn trọng quy luật nối kết giữa mọi hiện tượng. Đấy là chưa nói đến sự mâu thuẫn trong cách biện luận vì giữa hai cá thể thì không có sự tương liên thế nhưng hành động thì lại tạo ra hậu quả.

 Trường hợp thứ nhất tượng trưng cho chủ nghĩa trường tồn (eternalism) và trường hợp thứ hai tượng trưng cho chủ nghĩa hư vô (nihilism), Trong khi đó Phật giáo luôn luôn chủ trương con đường Trung Đạo tức đứng giữa hai cực đoan trên đây. Vậy thì theo Phật giáo "ai" đứng ra nhận lãnh cái gánh nặng phát sinh từ một hành động do một cá thể "khác" thực thi ?

 Trước hết xin trích dẫn một lời thuyết giảng của Đức Phật trong Kinh người vác gánh nặng (Bhara-sutta) như sau :

 "Này các tỳ kheo, vậy cái gánh nặng là gì? Cái ấy được diễn đạt (giải thích) bằng danh xưng gọi là sự chiếm hữu (bám víu) của năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn) [...].Đấy gọi là gánh nặng. Vậy ai là người vác cái gánh nặng ấy? Cái ấy (cá thể ấy) được diễn đạt bằng danh xưng của một nhân dạng mang tính cách cá thể. [Thí dụ] người này hay người kia, mang tên như thế này hay như thế kia, xuất thân từ gia đình này hay gia đình nọ, v.v... Đấy chính là người vác gánh nặng. Vậy khuân vác cái gánh nặng là gì ? Ấy là sự thèm khát (tanha), nó sẽ mang lại sự tái-hiện-hữu và tái-hình-thành [...]. Vậy ném bỏ cái gánh nặng là gì ? Đấy là sự chấm dứt (đình chỉ) hoàn toàn sự thèm khát ấy, vứt bỏ nó, từ bỏ nó, tự giải thoát ra khỏi nó, loại bỏ nó..."

(dựa theo bản dịch của Môhan Wijayaratna (Samyuta-Nikaya, Bhara-sutta, Les entretiens du Bouddha, Sueil, 2001, trang 187-188).

 Khi năm thứ cấu hợp chiếm giữ một vật thể thì vật thể ấy mang một danh xưng gọi là gánh nặng (nghiệp) và năm thứ cấu hợp cũng trở thành một cá thể (nhân dạng) để vác cái gánh nặng ấy. Năm thứ cấu hợp không khuân vác gì cả, chỉ có một cá thể dưới hình thức một nhân dạng mới vác cái gánh nặng mà thôi. Vậy cái gánh nặng ấy là gì ? Đấy là nghiệp hay là sự hiện hữu trói buộc trong cõi ta-bà. 

 Cao siêu lắm thay một một lời giảng. Suy tư về lời giảng ấy để mở rộng tầm nhìn thì ta sẽ không còn thắc mắc cá thể nào là tác giả của một hành động và cá thể nào nhận lãnh tác động do hành động ấy gây ra. Hành động và tác động liên hệ mật thiết với nhau, cá thể hành động và cá thể nhận lãnh tác động cũng chỉ là một, bởi vì cá thể chỉ hình thành khi nào xảy ra hành động. Sự hình thành của một cá thể không bao giờ ngưng nghỉ, nó liên tục phát sinh từ những hành động tạo nghiệp, sự hình thành liên tục ấy chính là sự hiện hữu của chúng ta trong thế giới này.

 Sau đây xin trích dẫn thêm một câu phát biểu của một triết gia lỗi lạc chuyên về triết học Ấn độ là Paul Masson-Ourel (1882-1956). Lời phát biểu tuy không thể so sánh kịp với lời giảng của Đức Phật trên mọi phương diện, thế nhưng cũng cho thấy cá thể nhận lãnh hậu quả của một hành động cũng chính là cá thể đã thực thi hành động ấy :

 "Số phận nằm bên trong mỗi con người, số phận ấy là do mình tự tạo ra cho mình. Hiện tại phản ảnh quá khứ của chính mình ; cả hiện tại lẫn quá khứ lại kiến tạo tương lai cho chính mình. Quy luật chi phối cả hai lãnh vực đạo đức và vật lý ấy thật chặt chẽ, không cho phép bất cứ ai thoát khỏi hậu quả phát sinh từ hành động của chính mình, không có một sự may mắn hay tình cờ nào có thể giúp vượt ra ngoài quy luật ấy, không có một sự tha thứ hay ân huệ thiêng liêng nào có thể làm nhẹ bớt gánh nặng quá khứ của chính mình. Thật thế định mệnh là do mỗi người tự tạo ra cho mình, vì trong từng giây phút một, mỗi người tự lèo lái cái định mệnh của mình theo một chiều hướng nào đó để kiến tạo tương lai cho chính mình, hậu quả phát sinh từ những hành động từ trước của mình (nghiệp) cũng tham dự vào sự lèo lái ấy".

(P. Masson-Ourel, La notion indienne de liberté, Revue d'histoire de la Philosophie, avril-juin 1930, trang 3).

 Thật vậy, một người tu tập không bao giờ nên tự nhìn mình như một thực thể cố định. "Chúng sinh" (être - being) chỉ là một danh xưng, một tên gọi mang tính cách quy ước vì chữ "chúng sinh" chỉ có nghĩa là năm thứ cấu hợp gồm thân xác vật chất và bốn thể loại sinh hoạt của tri thức gọi chung là tâm thần (mental- spirit). Hình tướng hay nhân dạng mà ta đang có chẳng qua là những biểu hiện tạm thời của nghiệp. Nghiệp và chúng ta níu kéo nhau để cùng nhau liên tục hình thành, vì thế không thể nào quy định cho "nhân dạng này" tạo nghiệp và "nhân dạng kia" hưởng quả. Đấy chỉ là một cách nhìn quá đơn giản và thô thiển. Một nhân dạng trong hiện tại là kết quả của một sự kết hợp gồm vô số nghiệp phát sinh từ thật nhiều nhân dạng đã tái sinh liên tục trước đó. Một nhân dạng đang tạo nghiệp - dù tích cực hay tiêu cực - trong kiếp sống sau có thể chưa gặp được ngay cơ duyên thuận lợi để nhận lãnh quả, bởi vì còn có sự tác động của vô số các nghiệp khác chen vào để hóa giải hay hoãn lại sự tạo quả của các nghiệp ấy.

 Trên đây là hai trích dẫn : một là lời giảng huấn của Đức Phật và một là lời phát biểu của một triết gia Tây phương. Thế nhưng trong suốt lịch sử phát triển của Đạo Pháp đã từng có vô số các vị đại luận sư đại diện cho thật nhiều học phái đã đưa ra những lời giải thích về vấn đề này. Vậy các vị ấy đã giải thích như thế nào ?

 Trong Di-lan-đà kinh (còn gọi là Na-tiên Tỳ kheo kinh - Milandapanha) chép lại rằng nhà vua Di-lan-đà (Milanda thế kỷ thứ II trước Tây lịch) hỏi nhà sư Na-tiên (Nagasena) như sau :

 "- Nếu người ta đốt một ngọn đuốc, thì nó có cháy được suốt đêm hay chăng ?

 - Nhất định là có.

 - Ngọn lửa vào canh cuối cùng trong đêm có phải là ngọn lửa vào canh hai hay chăng, và ngọn lửa vào canh hai có phải một thứ với ngọn lửa vào canh một hay chăng ?

 - Không.

 - Thế thì trong ba canh, mỗi canh phải có một ngọn đuốc khác, có phải thế không ?

 - Không. Chỉ có một ngọn đuốc duy nhất đã cháy suốt đêm.

 - Cũng thế, thưa Đại vương, sự tiếp nối của các hiện tượng (dhamma) không ngưng nghỉ : hiện tượng này biến đi thì hiện tượng kia sinh ra ; tương tợ như giữa hai hiện tượng không có cái nào trước, cái nào sau. Vì thế không phải cùng một người, cũng không phải là một người khác đã nhận lãnh hậu quả tác động sau cùng của tri thức".

(theo bản dịch tiếng Pháp của Louis Finot, Les questions de Milanda, Ed. Dharma, 1983, tập II).

 Trong một đoạn khác nhà vua Di-lan-đà lại hỏi :

 "- Này tỳ kheo Na-tiên, thế cái gì tái sinh ?

 - Danh-xưng-và-hình-tướng.

 - Có phải là Danh-xưng-và-hình-tướng hiện tại tái sinh hay không ?

 - Không. Danh-xưng-và-hình-tướng hiện tại thực thi một hành động tốt hay xấu ; và chính vì hậu quả của hành động ấy mà một Danh-xưng-và-hình-tướng khác tái sinh.

 - Nếu không phải là Danh-xưng-và-hình-tướng trước kia tái sinh, thì Danh-xưng-và-hình-tướng sau này đâu có vướng mắc vào những tội đã vi phạm từ trước.

 - Nếu không phải [đúng] cái Danh-xưng-và-hình tướng trước kia tái sinh [trở lại], thì trên thực tế Danh-xưng-và-hình-tướng ấy vẫn tái sinh ; bởi vì nó tái sinh, cho nên đấy không còn phải là Danh-xưng-và-hình-tướng của chính nó [trước kia].

 - Hãy nêu lên cho trẫm một thí dụ.

[...]

 - Vào mùa đông có một người nhóm một đống lửa trong ruộng của mình để sưởi, khi hắn bỏ đi lại quên tắt. Lửa cháy lan sang ruộng người khác. Người này xin Đại vương xét xử kẻ đốt ruộng mình. Nếu người bị kiện tự biện hộ như thế này : "Nào tôi có đốt ruộng của người ấy đâu : đấy không phải là lửa mà tôi để lại vì quên tắt, không phải [chính cái] lửa ấy đã làm cháy ruộng của hắn, vậy tôi không có tội tình gì cả.

 - Hắn có tội.

 - Tại sao lại thế ?

 - Bởi vì dù cho hắn có nói gì đi nữa thì ngọn lửa sau cùng (đốt cháy ruộng của người khác) vẫn liên hệ với ngọn lửa lúc khởi đầu (mà hắn quên dập tắt).

 - Thưa Đại vương, đối với Danh-xưng-và-hình-tướng thì cũng tương tợ như thế."

(theo bản dịch tiếng Pháp của Louis Finot, op. cit.)

 Nếu nhìn vấn đề dưới một khía cạnh khác thì chúng ta thấy các luận sư Phật giáo cho rằng tri thức (consciousness) nói chung đã giữ vai trò tiếp nối liên tục giữa các sự hiện hữu. Một cách tổng quát có hai cách giải thích sự liên tục đó : cách thứ nhất hình dung một dòng tri thức không gián đoạn (continuum) gồm những khoảnh khắc tiếp nối nhau, cách thứ hai là mô tả một thứ tri thức sâu kín (a-lại-da thức) hoạt động liên tục và làm căn bản cho các kiếp sống liên tiếp. Vấn đề này đã được trình bày trong phần trước đây và chỉ xin tóm lược lại vài quan điểm chính do các học phái khác nhau chủ trương.

 Theo học phái Tì-bà-sa-luận (Vaibhasika) thì dòng lưu chuyển liên tục của tri thức giữ vai trò chống đỡ cho chuỗi tiếp nối không ngưng nghỉ, liên kết giữa hành động và hậu quả, hết kiếp này sang kiếp khác. Học phái này cho rằng sự hoạt động của tri thức tâm thần khác với sự hoạt động của năm tri thức giác cảm, vì tri thức tâm thần hoạt động liên tục kể cả trong giấc ngủ thật sâu, trong lúc hôn mê và trong những lúc thiền định về sự tĩnh lặng tức là sự đình chỉ của tâm thức, kể cả trong giai đoạn xảy ra cái chết, trong khi đó năm tri thức giác cảm chỉ hoạt động khi nào có sự tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài. Các học phái xưa khác, trong số này có học phái Kinh lượng bộ (Sautrantika) thì cho rằng nghiệp hình thành dưới một thể dạng không hẳn là tâm thần cũng không hẳn là vật chất, thể dạng này giữ vai trò liên kết giữa hành động và hậu quả, đó là một nhân tố "tồn lưu" hay "tồn tích" trong tri thức giữ vai trò tạo ra quả trong tương lai và nối liền các sự hiện hữu.

 Theo Pháp Xứng (Dharmakirti, thế kỷ thứ VII) thuộc học phái Duy thức (Cittamatra) thì dòng tiếp nối liên tục của tri thức tâm thần giữ vai trò chống đỡ và chuyển tải các vết hằn của nghiệp từ sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác. Vô Trước (Asanga) sáng lập học phái Duy thức (Yogacara) và người em là Thế Thân (Vasubhandu) cả hai giải thích rằng các dấu vết hay tồn dư của nghiệp được cất chứa trong tri-thức-căn-bản-của-tất-cả tức là a-lại-da thức (alayavijnana). Các dấu vết hay tồn dư đó sẽ chuyển thành các chủng tử làm phát sinh ra quả. Sự sinh hoạt liên tục của a-lại-da thức giữ vai trò liên kết giữa các sự hiện hữu. Cách giải thích của Vô-Trước và Thế thân được chấp nhận một cách rộng rãi trong các học phái Đại thừa nhất là Phật giáo Tây tạng.

 Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nghĩ rằng chỉ có Đức Phật mới hiểu được nghiệp là gì và sự tái sinh của một cá thể là gì. Trí thông minh quy ước của chúng ta chỉ đủ để suy ngược trở lại nguồn gốc của mình kể từ thế hệ cha mẹ đến ông cố bà cố, cha mẹ của ông cố bà cố..., và nếu được như thế cũng đã là nhiều. Trong khi đó trong đêm giác ngộ, vào canh hai Đức Phật quán thấy tất cả tiền thân của Ngài trong quá khứ và của từng chúng sinh một cũng như hoàn cảnh mà họ sẽ tái sinh... Sau đây là một đoạn tóm lược trích dẫn từ kinh Trung A Hàm :

 ..."Sang canh hai, Tất-đạt-đa lần lượt hội nhập vào tất cả sáu cõi chúng sinh trong thế giới ta-bà, quán thấy thật chi tiết các kiếp sống của chính mình trong quá khứ và đồng thời cũng nhìn thấy trước hoàn cảnh sẽ tái sinh của từng chúng sinh một trong tương lai, dù đấy là các chúng sinh tầm thường hay lừng danh, xinh đẹp hay xấu xí, dù các chúng sinh ấy sẽ tái sinh trong một kiếp sống thuận lợi hay khó khăn", (Trung A Hàm, 36).

 Chỉ có trí tuệ siêu nhiên và trực tiếp của Đức Phật mới quán thấy được sự vận hành trọn vẹn của nghiệp, cái "thông minh" quy ước, hạn hẹp và thô thiển của chúng ta nhiều lắm thì cũng chỉ đủ để suy luận một cách gián tiếp để cố gắng tìm hiểu sự vận hành ấy là gì. Dù sao thì chúng ta cũng cứ cố gắng sử dụng những ngôn từ quy ước mà chúng ta học hỏi được mà trao đổi với nhau để cầu mong tìm hiểu được phần nào những lời giảng huấn của Đức Phật hầu giúp đỡ nhau trong việc tu tập. Một ứng dụng thực tế nhất là người tu tập mỗi khi có một tác ý hiển hiện trong tâm thức thì phải quán xét ngay xem đấy là một tác ý do vết hằn mang bản chất tích cực hay tiêu cực làm phát hiện ra tác ý ấy. Nếu tác ý ấy biểu hiện cho một xung năng tiêu cực và đen tối thì phải tức khắc chận nó lại, không cho nó phát hiện thành hành động trên thân xác, ngôn từ hay trong tâm thức. Nếu tác ý ấy biểu hiện cho một xung năng tích cực mang bản chất từ bi, thì nên phát động sự hân hoan và sung sướng trong lòng để chuyển ngay nó thành những hành động cụ thể.

 

Lời Kết

 Nghiệp phát sinh trong tri thức, in dấu trong tri thức, lưu giữ trong tri thức và được chuyển tải nhờ dòng tiếp nối liên tục của tri thức. Sau đó nghiệp phát hiện trở lại trong tri thức, tác động và làm phát lộ những ý định và chủ đích trong tri thức và chuyển những ý định hay chủ đích ấy thành ngôn từ hay hành động hướng vào các đối tượng bên ngoài. Tri thức lại tiếp nhận những phản hồi của những hành động đó để ghi lại những vết hằn mới trên dòng lưu chuyển bất tận của nó.

 Trên dòng trôi chảy liên tục đó của tri thức, tư duy (samskara) thúc đẩy nhau như những gợn sóng trên mặt một dòng sông, và tác ý (cetana) theo đó cũng cũng bị cuốn trôi để hòa nhập và trôi chảy theo. Kết quả là nghiệp (karma) không ngừng hình thành, tương tợ như những gợn sóng trên mặt một dòng nước.

 Nếu hiểu theo học phái Duy thức thì tri thức thứ sáu liên tục kết hợp, hệ thống hóa và diễn đạt mọi sự cảm nhận hầu mang lại sự hiểu biết quy ước và phía sau sự hiểu biết đó tri thức thứ bảy làm hiển hiện thường xuyên một "cái tôi" trường tồn. Sự hiện hữu của "cái tôi" hiện ra một cách kín đáo hay lộ liễu phía sau mọi sự diễn đạt quy ước tượng trưng cho vô minh. "Cái tôi" ấy và những sự diễn đạt của nó dưới thể dạng tác ý (cetana) lưu lại dấu vết trong thể dạng tri thức thứ tám là a-lại-da thức. Nếu "cái tôi" không hiện hữu và cũng không có một sự diễn đạt nào thì a-lại-da thức (alaiyavijnana) cũng sẽ trở nên trong suốt tương tợ như nước thật tinh khiết trong một dòng sông im lìm, không một gợn sóng, không chuyển tải một cọng rác, một chiếc lá khô hay một hạt phù sa nào.

 Đức Đạt-lai Lạt Ma thường giải thích là dòng tri thức của mỗi cá thể gồm những khoảnh khắc tiếp nối nhau liên tục từ kiếp sống này sang kiếp sống khác, xuyên qua giai đoạn trung gian là cái chết, kể cả sau khi đã đạt được thể dạng giác ngộ. Vì thế thiết nghĩ có thể tạm mượn hình ảnh cụ thể và đơn giản của một dòng sông yên lặng trên đây để tượng trưng cho mục đích tu tập. Thật vậy trên đường tu tập đôi khi cũng có thể xảy ra trường hợp nhầm lẫn giữa phương tiện và cứu cánh. Phật giáo có 84 000 phương tiện thiện xảo (upaya), con số này mang tính cách tượng trưng trong truyền thống văn hóa Ấn độ, do đó cũng có thể nghĩ rằng mỗi chúng sinh phải cần đến một phương tiện thiện xảo riêng cho mình, vì thật ra không có hai chúng sinh hoàn toàn giống nhau. Trong khi đó cứu cánh thì chỉ có một tức là sự Giải thoát. Đức Phật có nói : "Nước biển chỉ có một vị mặn, Đạo Pháp của Như Lai cũng chỉ có một vị duy nhất, đấy là sự Giải thoát". Vậy hãy đơn cử một thí dụ cụ thể, Tây phương cực lạc là một phương tiện thiện xảo, thế nhưng nhiều người lại cứ tưởng đấy là cứu cánh. Vậy cực lạc trong cõi Tây phương có nghĩa là gì ?

 Cực lạc là sướng tột đỉnh, sướng vô cùng, sướng tối đa. Vậy thì ai sướng hay cái gì sướng ? Thị giác sướng, thính giác sướng, khứu giác sướng, vị giác sướng, xúc giác sướng hay cấu hợp tri thức sướng ? Sướng là một sự diễn đạt thuộc chức năng của uẩn thứ tư (samskara) trong ngũ uẩn, và sự diễn đạt của uẩn thứ tư ấy chính là sự tạo nghiệp. Phía sau cái sướng đó có một "cái tôi" thật to lớn ẩn nấp để bám víu. Chính tri thức thứ bảy đã tạo dựng ra "cái tôi" ấy để buộc chặt một cá thể vào chu kỳ luân hồi.

 Tóm lại cứu cánh của Phật giáo thật ra không khổ mà cũng chẳng sướng, không thuộc phương Tây mà cũng chẳng phải ở phương Đông. Một cách đơn giản bởi vì :

 Phía sau sự tu tập không có người tu tập ;
 Phía sau phép thiền định không có người hành thiền ;
 Phía sau lòng từ bi không có người bồ-tát ;
 Phía sau sự Giác ngộ không có người giác ngộ. 
 Dòng sông tuy vẫn chảy thế nhưng trên mặt sông và bên trong dòng nước, trên thượng nguồn hay dưới hạ lưu, bản chất của nước chỉ là một, không một mảy may khác biệt, tương tợ như nước không chảy, như một dòng sông yên lặng. Đấy là hình ảnh của sự "ngưng nghỉ" hay sự "đình chỉ" (nirodha) của một tâm thức không tạo nghiệp. Tuy đình chỉ thế nhưng tâm thức ấy vẫn lưu chuyển như một dòng sông. Nghiệp phát sinh từ một tâm thức vọng động sẽ tạo ra thế giới, nghiệp phát sinh từ một tâm thức vắng lặng sẽ làm hiển hiện ra niết bàn.

CHIẾN THẮNG và CHIẾN BẠI
Kinh SANGAMA - SUTTA
 Dưới đây là một bản kinh ngắn trích từ Tương ưng bộ kinh (Samyutta-Nikaya), gồm 5 quyển, Ấn bản PTS, 1892-1898. Bản kinh này được Đại Đức Môhan Wijayaratna dịch từ tiếng Pali sang tiếng Pháp trong quyển "Những bài thuyết pháp của Đức Phật" (Les Sermons du Bouddha, nhà xuất bản Cerf, 1988, Paris, tr.46-48). Tên của bài kinh này là Sangama (tiếng Pali) có nghĩa là một trận chiến hay một cuộc chiến.

 Một lần, Đấng Thế Tôn đang ở thành Xá Vệ (Savatthi). Lúc đó vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đà (Magadha) đang thúc quân gồm bốn sư đoàn (1) tiến đến tận thành Kasi để khai chiến với vua Pasenadi Kosala của xứ Kiều Tát La (Kosala). Hay tin vua Vedehiputta mang quân tấn công lãnh thổ của mình, vua Pasenadi cũng tức thời khởi binh kéo bốn sư đoàn đến thành Kasi để nghênh chiến. Thế là hai vị quốc vương xua quân nhập trận và sau một cuộc hỗn chiến thì vua Vedehiputta đánh thắng được vua Pasenadi. Vị vua bại trận phải rút về kinh đô của mình là thành Xá Vệ.

 Hôm đó, như thường lệ các đệ tử khoác áo (2), ôm bình bát đi vào thành Xá Vệ để khất thực. Sau khi khất thực trở về và ăn xong thì họ tìm đến bên cạnh Đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với Đấng Thế Tôn như thế này : "Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta Ajatasattu của xứ Ma Kiệt Đà khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để khai chiến với vua Pasedani Kosala. Vua Pasedani hay tin vua Vedehiputta xua quân xâm lược, cũng đã khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại quân của vua Vedehiputta (...)".

 Đấng Thế Tôn nói như sau :

 "Này các tỳ kheo, Vedehiputta là một người bạn thiếu đạo hạnh, là một người đồng hành thiếu đạo hạnh, là một người thân thuộc thiếu đạo hạnh (3). Này các tỳ kheo, trong khi đó thì vua Pasedani Kosala là một người bạn đạo hạnh, là một người đồng hành đạo hạnh, là một người thân thuộc đạo hạnh. Trong lúc này vì thất bại nên vua Pasedani Kosala sẽ phải chịu cảnh đau buồn ".

 Kế đó Đấng Thế Tôn nói tiếp như sau :

" Chiến tranh gây ra hận thù,

Kẻ bại trận rơi vào cảnh khốn cùng.

Ai muốn tìm lấy sự yên tịnh,

Từ bỏ mọi ý nghĩ về chiến thắng hay bại trận,

Sẽ tìm thấy an lạc cho chính mình".

 [Một thời gian sau, vào một lần khác], vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà một lần nữa lại khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để khai chiến với vua Pasedani của xứ Kiều Tát La. Hay tin vua Vedehiputta xua quân tấn công, vua Pasedani cũng khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến về thành Kasi để chống lại. Thế là hai vị quốc vương xua quân vào trận chiến. Lần này, vua Pasedani là người chiến thắng, bắt sống được vua Vedehiputta. Vua Pasedani tự nhủ rằng : "Mặc dầu ta không hề hận thù vị vua này, [nhưng] vị vua này lại hận thù ta. Và dầu sao đi nữa, hắn cũng là cháu ta (4). [Vì thế] ta chỉ nên tóm thâu quân đội của hắn mà thôi, gồm sư đoàn voi trận, sư đoàn kỵ binh, sư đoàn chiến xa, sư đoàn bộ binh. Riêng Vedehiputta thì ta không giết mà tha cho hắn được tự do". Và thế là vua Pasedani tịch thu cả đạo quân của Vedehiputta và tha cho ông ta.

 Vào sáng sớm tinh sương hôm đó, nhiều đệ tử mặc áo cà sa, ôm bình bát và khoác thêm áo ấm đi vào thành Xá Vệ khất thực. Sau khi khất thực trở về và ăn xong thì các vị tỳ kheo tìm đến bên cạnh đấng Thế Tôn. Khi đến gần thì họ đảnh lễ Đấng Thế Tôn rồi lùi ra ngồi một bên. Tiếp theo đó họ trình với Đấng Thế Tôn như sau: "Bạch Thế Tôn, vua Vedehiputta của xứ Ma Kiệt Đà xua quân gồm có bốn sư đoàn tiến đến tận thành Kasi khai chiến với vua Pasedani Kosala. Vua Pasedani sau khi hay tin vua Vedehiputta kéo quân xâm lăng, cũng khởi binh gồm bốn sư đoàn tiến đến thành Kasi để chống cự với quân của vua Vedehiputta (...). Thế là vua Pasedani tịch thu cả quân đội của Vedehiputta và tha cho vị vua này".

 Sau khi nghe thuật lại chuyện và biết đuợc tự sự, Đấng Thế Tôn nói như sau :

"Một người làm tan tành sự nghiệp của người khác

cho đến một lúc hành động (nghiệp) của mình sẽ làm tan tành sự nghiệp của chính mình.

Tuy thế, khi sự nghiệp của mình đã bị người khác làm cho tan tành,

và dù cho sự nghiệp đã tan tành, thì mình vẫn cứ làm cho người khác phải tan tành sự nghiệp.

Đến một lúc nào đó thì hành động (nghiệp) của mình sẽ chín muồi,

[Nhưng ] kẻ ngu đần lại cứ tưởng rằng : " đây là thời cơ của mình đã đến".

Tuy nhiên, khi hành động (nghiệp) của mình đến lúc đã chín muồi,

thì kẻ ngu đần ấy không sao thoát khỏi khổ đau.

Người sát nhân sẽ tìm thấy kẻ giết mình trong tương lai,

người chiến thắng sẽ tìm thấy kẻ đánh bại mình trong tương lai,

kẻ xúc phạm người khác sẽ tìm thấy người xúc phạm lại mình trong tương lai,

kẻ gian ác sẽ tìm thấy người gian ác với mình trong tương lai,

thế đó, tùy vào sự chín muồi của hành động đã thực thi,

và dù cho sự nghiệp đã tan tành, nhưng hắn (kẻ ngu đần) vẫn làm cho tan tành sự nghiệp của người khác.

 (Samyutta-Nikaya, I, 82-85)

Vài lời góp ý của người dịch :

 Hơn hai ngàn năm trăm năm trước, chiến tranh mang tính cách trực tiếp và đơn giản hơn ngày nay rất nhiều, và chiến thắng hay chiến bại do đó cũng minh bạch hơn. Ngày nay xã hội con người trở nên phức tạp hơn, chiến tranh cũng theo đó mà đa dạng hơn, mang nhiều sắc thái và khía cạnh khác nhau, từ kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa cho đến nhân phẩm và cả sự tự trọng của một dân tộc. Vì thế mà chiến thắng trên một khía cạnh nào đó cũng không có nghĩa là chiến thắng được tất cả.

 Câu chuyện chiến tranh trên đây cho thấy trên cùng một mặt trận Kasi nhưng lúc thì vua này thắng, lúc thì vua kia thắng, vì thế không có một chiến thắng nào muôn đời, cũng không có một chiến bại nào mãi mãi. Cái chiến thắng vững bền hơn hết là chiến thắng chính mình trước những khích động của bản năng và tham vọng. Khi nào ta vẫn còn quan tâm đến chiến thắng và chiến bại thì khi đó ta vẫn còn nô lệ cho những xúc cảm bấn loạn trong lòng. Trong kinh Sangama Đức Phật đã dạy như sau : "Nếu ai biết tìm lấy sự yên tịnh, đừng nghĩ đến mình là người chiến thắng hay chiến bại, thì người ấy sẽ tìm thấy sự an lạc". 

 Ghi chú :

 1- Bốn sư đoàn có nghĩa là : sư đoàn voi trận, sự đoàn kỵ binh, sư đoàn chiến xa, sư đoàn bộ binh.

 2- Khoác áo : có nghĩa là người tỳ kheo mặc thêm một áo ấm may bằng hai lớp vải gọi là sanghati.

 3- Thiếu đạo hạnh ở đây có ý ám chỉ vua Vedehiputta Ajatasattu đã cướp ngôi cha, nhốt cha mình vào ngục và cố tình để cho cha chết đói.

 4- Vua Vedehiputta Ajatasattu là con trai của chị vua Pasedani Kosala, tức là cháu cùa vua Pasedani Kosala và gọi vua Pasedani Kosala bằng cậu.

LỤC BA LA MẬT LÀ GÌ?

Phật giáo dùng một thí dụ dễ hình dung và đầy thi vị để tượng trưng cho sự tu tập : «vượt sang bờ bên kia của đại dương khổ đau». «Vượt sang bờ bên kia» là nghĩa từ chương của chữ Ba-la-mật, tiếng Phạn là Paramita, kinh sách gốc Hán gọi là «đáo bỉ ngạn» (đến được bờ bên kia). Nhưng thật ra ý nghĩa của chữ Ba-la-mật thường được hiểu theo nghĩa bóng là «Hoàn hảo», «Hoàn thiện», «Siêu nhiên», «Đạo hạnh siêu phàm», «Đạt được trí tuệ siêu việt»… Nói chung, Ba-la-mật dùng để chỉ những phẩm tính của người Bồ-tát trên đường tu tập, những phẩm tính ấy gồm có sáu loại gọi là Lục Ba-la-mật hay Lục Độ, chữ độ có nghĩa là cứu giúp hay là đi qua sông.

Bộ kinh mô tả các địa giới của người Bồ-tát là Du-già sư địa luận kinh (Yogacarabhumisutra) có đề cập đến tính cách siêu nhiên của sáu phẩm tính Ba-la-mật như sau : «Người ta gọi những phẩm tính ấy là siêu nhiên bởi vì sức mạnh vận chuyển và bản chất của chúng đều tinh khiết, thực thi các phẩm tính ấy sẽ đạt được kết quả tối thượng». Kinh Kim Cương Bát-nhã-ba-la-mật-đa (Vajraracchedika-prajnaparamita) cũng đề cập đến những phẩm tính ấy : «Này Tu-bồ-đề, nếu một người Bồ-tát không bám víu vào bất cứ một khái niệm nào khi tu tập về lòng độ lượng, những xứng đáng gặt hái từ những hành vi đạo hạnh ấy sẽ rộng lớn và mênh mông như không gian». Vậy những hành vi tu tập của Lục Ba-la-mật phải là những phản ứng tự nhiên, bộc phát một cách tự động từ tận cùng của thâm tâm, không liên kết với bất cứ một khái niệm nào về chủ thể, đối tượng và ý nghĩa của hành vi, nhất là không cầu mong và chờ đợi gì cả.

Lục Ba-la-mật trình bày trong kinh sách Bắc tông thực ra đã được ghi chép trong các kinh sách rất xưa của Nam tông, chẳng hạn như kinh sách của Nhất thiết hữu bộ (Sarvastivada) và Thuyết nhất thế bộ (Lokottaravada), tuy có một vài khác biệt. Bài viết này dựa phần lớn vào cách định nghĩa của Bắc tông.

Sáu đức hạnh Ba-la-mật là :

1- Sự hào phóng siêu nhiên, (danaparamita), còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.

2- Giới hạnh siêu nhiên, (silaparamita), còn gọi là Trì giới Ba-la-mật.

3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên, (kshantiparamita), còn gọi là Nhẫn nhục Ba-la-mật.

4- Nghị lực siêu nhiên (viryaparamita), còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật.

5- Sự chú tâm (tập trung tâm thức) siêu nhiên (dhynaparamita), còn gọi là «Thiền định» Ba-la-mật.

6- Sự hiểu biết siêu nhiên (prajnaparamita), còn gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.

1- Sự hào phóng siêu nhiên

Hào phóng là khả năng mở rộng lòng ta để hiến dâng tất cả cho kẻ khác. Đó là liều thuốc hoá giải mọi sự bủn xỉn và bần tiện, mọi tính toán, mưu đồ và tham lam. Giàu có không đơn thuần căn cứ trên phương diện vật chất và tiền bạc, nhưng còn dựa trên khía cạnh tinh thần, học thức và khả năng yêu thương. Vì thế, mỗi người trong chúng ta đều có một chút gì để cho, để hiến dâng cho kẻ khác. Bố thí Ba-la-mật không phải tùy thuộc vào số lượng vật chất hiến dâng mà chính là khả năng mà ta có thể đặt lòng ta vào hai bàn tay của kẻ khác. Khi càng ý thức được thế nào là ích kỷ thì ta lại càng biết mở rộng lòng ta trước những kẻ khổ đau. Có những người rất nghèo, và cũng không có vốn liếng học thức cao, nhưng họ có thể bật khóc trước cảnh khổ đau và cơ hàn của kẻ khác. Ngoài tình thương ra, họ không có gì để hiến dâng, nhưng chính đó mới thật là bố thí.

Sự hào phóng hay bố thí gồm có ba thể dạng :

a) Tài thí (danaparamita) : tức là bố thí hiện vật hay tài chính cho những người thật sự thiếu thốn, bần hàn, hoặc cho các cơ quan từ thiện. Bố thí nhưng không chờ đợi sự hồi đáp hay biết ơn của người nhận, không cầu mong được hưởng những điều xứng đáng, không bám víu và chờ đợi hậu quả của hành vi bố thí. Ta đói nhưng có kẻ đói hơn, ta chia miếng ăn làm đôi, thế thôi và không nghĩ gì nữa. Ta vừa mua vé số, ta gặp một người ăn xin, ta bố thí để cầu mong trúng số độc đắc, như thế không phải là bố thí. Một người giàu có, dù là bất chính hay lương thiện, trích ra một phần nhỏ để bố thí trong mục đích trấn an lương tâm, hoặc nhắm vào mục đích mua danh, cũng không phải là bố thí.

Bố thí ở một cấp bậc cao hơn nữa, là hiến dâng những gì quý giá nhất, hiếm hoi và tha thiết nhất đối với ta, hành vi ấy gọi là Đại bố thí.

Bố thí một phần thân thể, hay cả mạng sống của ta vì sự an vui và sinh tồn của kẻ khác gọi là Bố thí Ba-la-mật. Kinh sách kể chuyện trong một kiếp trước, Đức Phật đã từng hy sinh thân xác mình để nuôi một con cọp mẹ gầy nhom vì đói, chỉ còn xương và da không có sửa nuôi con. Có những vị tu hành tự thiêu để đánh thức lương tâm kẻ khác trước những ý đồ vô minh của họ, đó là hành vi của những người Bồ-tát đã đạt được ít nhất địa giới thứ nhất trong mười địa giới của người Bồ-tát. Bị kích động bởi hận thù, cuồng tín hay vì mục đích chính trị, tự hy sinh thân xác để gây ra một hành vi bạo động làm thiệt hại sinh mạng kẻ khác, không phải là bố thí.

Phật giáo Nam tông thường tạc một pho tượng Phật đứng thẳng, tay trái duỗi thẳng và bàn tay mở rộng tượng trưng cho bố thí. Tay phải co lại trước ngực, lòng bàn tay hướng ra phía trước như đang đẩy ra, tượng trưng cho can đảm và sự che chở chúng sinh khỏi những lo âu và sợ hãi. Vậy mỗi khi ta bố thí mà còn do dự hay tính toán thì ta hãy nhìn lên tượng Phât để hiểu rằng Đức Phật khuyên ta như thế nào với bàn tay để ngữa… 

b) Vô úy thí (abhayadana) : tức là che chở và bảo vệ trực tiếp hay gián tiếp mọi sinh linh yếu đuối, khờ khạo, ngây ngô, không phương tiện tự vệ trước bạo lực, lo buồn, sợ hãi và chết chóc. Tùy theo khả năng của mỗi người, vô úy thí cũng có nghĩa giản dị là dẫn đường cho những kẻ lạc lối, ủy lạo và an ủi những kẻ lỡ vận, chia xẻ những xót xa của những người đang đau khổ. Khi thấy một người rơi vào hoàn cảnh khổ đau cùng cực, ta hy sinh tất cả để chăm sóc cho họ. Khi thấy sinh vật bị chở đến lò sát sinh, tuy không thể giải thoát cho chúng, nhưng ta vẫn có thể đọc nhẫm một câu kinh để xót thương và hồi hướng cho những sinh vật ấy, đồng thời cầu xin cho người đồ tể gây ra đau đớn một cách thản nhiên và vô tình, sớm ý thức được sự hung bạo của họ, dù hành vi giết hại chỉ là sự bắt buộc vì kế sinh nhai. Nhưng những đau đớn trực tiếp do bàn tay của họ gây ra sẽ đem đến những hậu quả trực tiếp cho họ, những hậu quả ấy có thể xảy ra rất sớm hay trong lâu dài, nhưng không sao tránh khỏi được. Thả một con chim đang bị nhốt trong lồng, một con cá trong chậu cũng gọi là vô úy thí, đó là cách che chở sinh vật trước sợ hãi và khổ đau. Một thí dụ thực tiển, khi có một con kiến rơi vào ly nước ta đang uống, ta không tức giận và thốt lên một lời thô tục, nhưng ta nên lấy một cây tăm để vớt nó ra. Dù nó không biết kêu la, nhưng ta vẫn nghe thấy tiếng cầu cứu của nó, tiếng cầu cứu ấy vang lên từ trong tận cùng của tim ta. Phật dạy rằng một việc lành dù nhỏ cách mấy cũng nên làm, một việc ác dù nhỏ cách mấy cũng không làm.

Vô úy thí cũng giản dị có nghĩa là giúp kẻ khác đừng lo sợ, chẳng hạn giúp họ tránh khỏi mê tín, dị đoan, bói toán... Những thứ ấy bề ngoải có vẻ tạo ra sự an tâm và tin tưởng, nhưng thật ra là cội nguồn của mọi thứ lo âu và sợ hãi. Vậy, chính ta phải can đảm và giúp cho kẻ khác can đảm. Hãy nhìn bàn tay của Phật đẩy ra phía trước để nhắc nhở ta hãy bảo vệ lấy ta và mọi sinh linh trước sợ hãi và lo âu.

c) Pháp thí (dharmadana) : một số kinh sách xếp Pháp thí vào hàng thứ hai trước khi nói đến Vô úy thí, nhưng cũng có kinh sách xếp vào hàng thứ ba hay thứ nhất vì tính cách đặc biệt của thể dạng Bố thí này. Pháp thí có nghĩa là hiến dâng và truyền lại cho kẻ khác Đạo Pháp, tức những lời giáo huấn của Đức Phật. Ta thường hiểu chỉ có Tăng đoàn mới đủ tư cách hiến dâng Đạo Pháp, nhưng thật ra bất cứ ai cũng có thể hiến dâng Đạo Pháp, tùy theo khả năng tu tập và hiểu biết của mình. Có thể ta không biết nhiều về Đạo Pháp nhưng ta vẫn có thể tụng một bài kinh cho người khác nghe, nghe kinh cũng có thể làm tan biến một phần nào sự sợ hãi, lời tụng chân thành của ta cũng có thể làm cho người nghe đến gần với Đạo Pháp hơn.

Trong hành vi Pháp thí, ta cũng nên cẩn thận. Tại sao phải cẩn thận? Vì Pháp thí rất tế nhị, tùy vào trình độ của ta và của người nhận và nhất là người nhận có sẳn sàng hay không, mức độ vô minh và cái ngã của họ đang tác hại họ như thế nào? Lời Pháp ta cầu mong hiến dâng cho họ có phù hợp với hoàn cảnh tâm thức của họ hay không? Pháp thí phải cẩn thận là như vậy. Ngoài ra, Pháp thí còn cần đến sự chân thật và can đảm nữa, chính kinh nghiệm về những gì mà Đạo Pháp đã đem đến cho ta sẽ giúp ta can đảm để Pháp thí. Một vài người cư sĩ hay tỳ kheo dùng tài hùng biện, hoặc lối kể chuyện khôi hài và hấp dẫn để mê hoặc người nghe, lấy Đạo Pháp làm bùa án ngữ mọi sự suy luận, những hành vi như thế không phải là Pháp thí. Pháp thí cũng không phải là thủ đoạn áp đặt một đức tin, dù là đức tin nơi Phật, nhưng đúng hơn là cách giúp kẻ khác suy luận, phán đoán để họ tự tìm lấy một con đường cho họ.

Còn một khía cạnh nữa mà kinh sách ít nói đến và ít nhấn mạnh là tính cách tích cực và tầm quan trọng của việc quảng bá Đạo Pháp trong khi Đức Phật còn tại thế và cả trong những thế kỷ tiếp theo sau đó. Trong giai đoạn tiên khởi này, việc phố biến Đạo Pháp nhất thiết nhờ vào cách truyền khẩu. Người này kể lại cho người kia những lời Phật dạy, cha kể lại cho con, vợ kể lại cho chồng, thầy kể lại cho trò, Tăng đoàn tu tập với nhau, giải thích cho nhau. Ngày nay, việc học thuộc lòng kinh điển vẫn còn lưu truyền trong các tu viện của Phật giáo Tây tạng. Học thuộc và tìm hiểu những lời giảng huấn của Phật, kèm thêm những kinh nghiệm đạt được do sự tu tập của mỗi người để giảng cho nhau và chỉ cho nhau, gọi là Pháp thí. Chính nhờ Pháp thí mà Đạo Pháp đã vượt qua nhiều trăm năm không cần đến chữ viết trong giai đoạn đầu, và cũng nhờ đó đã lưu truyền cho đến ngày nay một cách vô cùng phong phú. Với những kỷ thuật hiện đại với băng dĩa và mọi phương tiện truyền thông để phổ biến, ta không có quyền làm cho Đạo Pháp nghèo nàn và mai một. Đối với chúng ta hôm nay, học hỏi Đạo Pháp để truyền lại cho nhau thật là cần thiết. Ý thức được như thế ta sẽ thán phục hơn những thế hệ Phật tử của hơn hai ngàn năm trước: có mấy người trong số họ được đi học, nhưng chỉ nhờ thành tâm, cố gắng và lòng mộ đạo của họ mà hôm nay đây, tất cả chúng ta được may mắn thừa hưởng một nền Đạo Pháp thật tuyệt vời.

Pháp thí còn có nghĩa là nên nói những gì ta học hỏi được và hiểu được một cách chân thật, nêu lên những kinh nghiệm của ta về những điều học hỏi ấy một cách kín đáo và khiêm tốn, đồng thời ta cũng sẳn sàng thú nhận những gì không biết hoặc không hiểu, tránh tất cả những thí dụ vướng mắc trong dị đoan và mê tín, nhất là luôn luôn phải dựa vào chánh Pháp và không đi ra ngoài chánh Pháp.

2- Giới hạnh siêu nhiên

Giữ giới không phải là những quy luật áp đặt hay trói buộc từ bên ngoài. Trong tập «Nhập Bồ-đề hành luận» (Bodhicaryavatara), Tịch thiên có nói như sau: «Làm gì có thể tìm ra một tấm da thật lớn để gói cả địa cầu? Chỉ cần một miếng da nhỏ cũng đủ làm được một đôi dép. Cũng thế, ta đâu có thể khống chế những hiện tượng bên ngoài; chỉ cần khắc phục tâm thức ta : đâu cần chú ý để biến đổi những thứ khác!». Thật vậy, giữ giới có tính cách nội tâm và tích cực, do đó giữ giới là một sự tự nguyện. Các nhà lãnh đạo, triết gia, khoa học gia, xã hội học, kinh tế học…hầu hết đều phóng tâm thức ra bên ngoài để sữa đổi thế giới này, mặc dù họ đã mang đến những tiến bộ và cải thiện không chối cải được, nhưng đồng thời họ cũng tạo ra vô số những vấn đề khác làm cho thế giới của chúng ta trở nên phức tạp hơn, và nhất là khổ đau trong thế giới đó vẫn còn nguyên, nếu khổ đau từ trước không gia tăng thêm thì cũng chỉ thay đổi bộ mặt mà thôi.

Kỷ luật hay giới hạnh gồm có ba sắc thái khác nhau :

a) Không làm những điều tai hại (samvarasila): Tiếng Phạn sila có nghĩa là luật, giới, tức là những điều răn cấm, nhưng sila cũng có nghĩa là mát mẻ, vì thế kinh sách gốc Hán còn dịch chữ này là thanh lương. Thế giới này như lửa bỏng, vì thế giữ giới còn hàm chứa ý nghĩa là dập tắt những ngọn lửa đang thiêu đốt chúng sinh. Luật hay giới được tóm lược và xếp chung trong mười điều cấm liên quan đến thân xác, ngôn từ và tâm thức :

- Giới luật liên quan đến thân xác : 1) không sát sinh, 2) không trộm cắp, 3) không tà dâm gây ra khổ đau.

- Giới luật liên quan đến ngôn từ : 4) không nói dối, 5) không phụ họa gây ra hận thù, chia rẽ, không nói những lời thô tục và sỗ sàng, 6) không nói những lời làm tổn thương kẻ khác, không phao tin, loan truyền và đồn đại, không chỉ trích và nói xấu kẻ khác, 7) không ăn nói tào lao vô tích sự.

- Giới luật liên quan đến tâm thức : 8) không dòm ngó của cải của kẻ khác, 9) không ác ý, 10) không duy trì những quan điểm sai lầm.

Đúng ra, theo Luật Tạng (Vinaya Pitaka), giới luật chia thành tám thứ loại, mỗi thứ loại gồm nhiều giới. Người Tỳ kheo phải tuân theo 227 giới, Tỳ kheo ni phải tuân theo 311 giới. Sự khác biệt này phải chăng đã chứng tỏ tâm thức của người phụ nữ mang nhiều xu hướng khác hơn với tâm thức của nam giới? Tuy nhiên giữ giới một cách khắc khe có thể đưa tới trường hợp quá gò bó, hoặc ngược lại người cố gắng giữ giới một cách nghiêm túc có thể trở nên kiểu hãnh và có ý khinh thường người không biết giữ giới.

Trong bộ «Phật học Tự điển» của cụ Đoàn Trung Còn, có nêu lên chuỗi liên kết từ việc giữ giới cho đến Niết bàn như sau :

1. Có trì giới, mới có trật tự. 

2. Có trật tự, mới có sự không bất bình.

3. Không bất bình, mới có vừa ý.

4. Có vừa ý, mới có hỷ lạc.

5. Có hỷ lạc, mới có thanh tịnh.

6. Có thanh tịnh, mới có an tâm.

7. Có an tâm, mới có định, (sự thăng bằng và tĩnh lặng của tâm thức).

8. Có định, mới có huệ, (trí tuệ).

9. Có huệ, mới có chán năm trần, (sắc, thinh, hương, vị, xúc).

10. Có chán năm trần, mới có lìa thọ cảm.

11. Có lìa thọ cảm, mới có dứt tội lỗi (không gây ra nghiệp).

12. Có dứt tội lỗi mới có giải thoát.

13. Có giải thoát, mới chứng Niết bàn.

Như thế, ta thấy rõ giữ giới một cách đơn giản cũng đã là một hành vi chuẩn bị cho Niết bàn.

b) Thực thi những điều lợi ích (kusaladharmasamgrahasila) : trì giới không có nghĩa là giữ giới một cách tiêu cực và thụ động. Thể dạng chủ động của giới hạnh là thực thi những điều lợi ích. Những gì thuộc đạo đức nên làm bao gồm trong mười điều sau đây :

- Đức độ thuộc thân xác : 1) bảo vệ sự sống của muôn loài, 2) thực thi sự rộng lượng và hào phóng, 3) ý thức trong cuộc sống tình dục, không gây ra khổ đau.

- Đức độ thuộc ngôn từ : 4) nói lên sự thực, 5) nói những lời hoà giải, tạo sự thân thiện và giảng hoà, 6) ăn nói nhỏ nhẹ, 7) tụng niệm kinh điển.

- Đức độ thuộc tâm thức : 8) biết hân hoan với hạnh phúc của kẻ khác, 9) từ tâm và thương người, 10) duy trì những quan điểm đúng đắn.

Chính thể dạng chủ động của giới luật sẽ trực tiếp đưa đến những điều xứng đáng, tức những nghiệp tích cực. Thực thi những điều đạo hạnh sẽ tạo sức mạnh cho tâm thức, làm gia tăng lòng nhiệt tâm. Phần chủ động vừa kể của giới luật chỉ có thể đạt được bằng sự tập luyện kiên trì. Đạo hạnh phải vượt lên trên mọi tính toán, thực thi đạo hạnh đòi hỏi lòng nhân từ, sự khả ái và cử chỉ dịu dàng, tất cả phải xuất phát từ đáy tim ta. Chẳng hạn như điều thứ sáu : phải ăn nói nhỏ nhẹ, ta cố gắng nói lên lời êm ái, nhưng có thể ta vừa nói vừa nuốt những lời thô bạo và sự oán hờn. Như thế không phải là giới hạnh Ba-la-mật. Sự ân cần, lòng từ tâm và nhân ái phải phát xuất một cách hồn nhiên từ bản năng.

c) Quan tâm đến sự an vui của tất cả chúng sinh (sattvarthakriyasila) : giữ giới và thực thi những điều đạo hạnh vẫn chưa đủ, còn phải đi xa hơn thế nữa : phải quan tâm đến hạnh phúc của muôn loài, hiến dâng tất cả những xứng đáng của ta cho chúng sinh, hồi hướng tất cả những gì gặt hái được để cầu mong sự an lành cho từng chúng sinh một. Xứng đáng và đạo hạnh gom góp được sẽ không còn của ta nữa, nhưng thuộc về tất cả chúng sinh, ta trả lại tất cả cho sự sống. Sự cấu hợp của thân xác và tâm thức chỉ có thể hàm chứa một ý nghĩa khi biết trì giới và thực thi đạo đức, nhưng những gì tích cực và xứng đáng do những hành vi ấy đem đến sẽ thuộc về sự sống của muôn loài, vì sự cấu hợp của thân xác và tâm thức ta sẽ tan rã, không phải là cơ sở đích thực và trường tồn để đón nhận những điều xứng đáng. Trì giới, thực thi đạo hạnh, nhưng không để cái ngã hay cái tôi bám víu vào những thứ ấy. Mở rộng lòng ta để trả lại tất cả những xứng đáng gặt hái được cho sự sống, như thế mới gọi là giới hạnh siêu nhiên.

3- Sự nhẫn nhục siêu nhiên

Nhẫn nhục là hành vi chận đứng mọi phán đoán, giữ cho tâm thức trong sáng và cởi mở, tràn ngập lòng từ bi trước bất cứ một hoàn cảnh nào. Để có thể hoá giải tâm thức và thân xác khỏi bị kích động bởi những xung năng và xúc cảm bấn loạn trước một tình huống nào đó, ta hãy hướng tâm thức quay nhìn vào vô thường, khổ đau và không gian bao la của vũ trụ, giữ cho tâm hồn cởi mở, thanh thản và yên lặng, không xao xuyến.

Nhẫn nhục siêu nhiên gồm có ba khía cạnh hay thể dạng khác nhau :

a) Chịu đựng sự vô ơn của kẻ khác (parapakaramarsanaksanti): đây chỉ là sự nhẫn nhục thông thường, một hành vi bất bạo động, tức không phản ứng trước sự nguyền rủa của kẻ khác, trước bạo lực và mọi hành vi sai trái của kẻ khác đối với ta. Dùng nham hiểm để trả lời cho nham hiểm, dùng bạo lực để đáp lại bạo lực chỉ gây thêm khổ đau cho tất cả mọi người và không giải quyết được gì cả. Trong kinh « Nhập Bồ-đề hành luận », Tịch Thiên có nói như sau : «Những điều lành gom góp được qua hàng ngàn niên kỷ của vũ trụ sẽ tiêu tan hết trong một phút giây giận dữ. Không có gì xấu xa bằng hận thù, cũng không có đức hạnh nào sánh được với sự nhẫn nhục; vậy thì, bằng bất cứ phương cách nào, phải tích cực trau dồi sự nhẫn nhục». Trong thế giới này có rất nhiều người sẵn sàng làm cho ta giận dữ, nếu ta đem sinh lực để phản ứng lại với từng người hay tất cả những người ấy, ta sẽ không còn sinh lực để làm bất cứ gì khác, và nhất là để tu tập, vì tu tập đòi hỏi rất nhiều cố gắng và sinh lực, nhiều hơn là ta tưởng. 

Sự hiện hữu tạo tác bằng điều kiện của ta dính liền với ngoại cảnh và cả phần tâm thức của kẻ khác, đồng thời cũng liên đới với sự vận chuyển chung của xã hội con người, kể cả sự sống và vũ trụ. Khi ta cảm thấy bị tấn công bởi những lời mạt sát, bởi bạo lực, nham hiểm, độc ác, hoặc rơi vào một tình huống ngược với sự mong đợi, ta liền nổi giận. Sự nổi giận ấy chẳng đem đến một giải pháp nào cả mà còn tạo ra vô số những khó khăn mới trong mạng lưới tương liên giữa con người với nhau, giữa xã hội, sự sống và cả vũ trụ nói chung. Những làn sóng tư duy bấn loạn và âm ba của giận dữ, trong từng người và trong tất cả mọi người, sẽ lan vào vũ trụ này, giao thoa và cộng hưởng để buộc chặt tất cả chúng ta với thế giới mà chúng ta đang sống. Phật giáo gọi cái thế giới ấy là thế giới của khổ đau và luân hồi.

b) Chịu đựng sự thử thách (dukhadhivasanaksanti) : nhẫn nhục không có nghĩa đơn giản là chận đứng những phản ứng bộc phát của ta trước những tấn công từ bên ngoài, mà còn có nghĩa là cố tình nhận chịu những thử thách từ bên trong, tức những khó khăn và thiếu thốn của ta. Điều ấy có nghĩa là ta chấp nhận cam go và gian khổ một cách hân hoan và tự nguyện, từ bỏ mọi bám víu vào những tiện nghi, những giá trị dễ dãi và hời hợt của sự sống này để quyết tâm tu tập. Đấy là khía cạnh thứ hai của nhẫn nhục, mang tính cách tích cực, kiên trì và cố gắng. 

Mặt khác, dù không có người nào làm trái ý ta, dù không có tình huống nào đi ngược với sự mong muốn của ta, nhưng trên thực tế ta vẫn tiếp tục gánh chịu khổ đau, chỉ vì vô số ảo giác và xung năng, nguyên nhân của khổ đau, đã ăn sâu vào tâm thức ta từ lâu. Cho đến khi nào ta chưa tẩy xóa được những vết hằn đó trong tâm thức, thì ta vẫn còn cần đến đức hạnh của nhẫn nhục. Vậy sự nhẫn nhục và chịu đựng trong trường hợp này có nghĩa là chấp nhận những khó khăn, nghịch ý và khổ đau từ sự hiện hữu của chính ta, chấp nhận để tìm thấy sự trong sáng và trầm tĩnh. Bệnh tật, đau buồn, khó khăn, nghèo khổ… không làm cho ta bấn loạn và lo âu quá đáng. Vượt lên trên những nghịch ý và khổ đau ấy đòi hỏi sự nhẫn nhục. Nhẫn nhục như thế cũng là một cách giúp ta làm nhẹ bớt đi nghiệp tiêu cực đang tác hại ta.

c) Không sợ hãi trước ý nghĩa sâu xa và cao siêu của Đạo Pháp (dharmanidhyanaksanti) : có nghĩa là không khiếp sợ trước những khái niệm như vô ngã (không có linh hồn), tánh Không, vô thường… Khiếp sợ những thứ ấy là biểu hiện của thể dạng bám víu và u mê. Nên hiểu rằng vô ngã, tánh Không, vô thường… là những khái niệm mà Đức Phật đưa ra để giúp ta xóa bỏ vô minh, đạt được sự hiểu biết tối thượng về thực thể của vũ trụ. Những khái niệm vừa kể là những diễn đạt bằng ngôn từ qua sự hiểu biết quy ước của ta, vì thế tự chúng, chúng không phải là bản thể thật sự của hiện thực, chúng chỉ là những đặc tính quy ước hay những biểu hiện bên ngoài của hiện thực mà thôi. Dù sự hiểu biết của ta còn mù mờ, ta cũng không nên hoang mang và lo sợ trước Đạo Pháp, hãy tiếp tục phát huy sự nhẫn nhục và kiên trì để tìm hiểu Đạo Pháp. Vô minh không thể xoá bỏ một cách dễ dàng.

Nếu nghĩ rằng tôi phải loại trừ cái ngã, và cả cá tính của cái tôi để đi tìm hư vô : tôi chết là tôi biến mất. Hiểu sai như thế có thể làm cho ta sơ hãi. Chết là một sự tiếp tục, hậu quả từ những gì ta đã làm, xung năng và những gì ta muốn làm sẽ tiếp tục đưa đẩy, lèo lái và hướng dẫn ta trong những tình huống khác qua những hình tướng khác. Ý thức được điều đó, đồng thời hiểu được một cách sâu xa và chính xác về tánh Không, về vô thường và vô ngã, ta sẽ can đảm hơn, không còn bám víu vào sự hiện hữu tạm thời của ta nữa, đồng thời lòng quyết tâm và sự kiên trì của ta trên đuờng tu tập sẽ gia tăng hơn. Khi đã quyết tâm thì nhẫn nhục và trì chí sẽ trở nên dễ dàng, không đòi hỏi sự cố gắng và sức chịu đựng của ta một cách quá đáng nữa.

4- Nghị lực siêu nhiên

Muốn thật sự bước vào con đường tu tập, nghị lực của chính ta không đủ, vì một lúc nào đó nghị lực đơn độc ấy sẽ suy yếu, hoặc ngược lại có thể gia tăng một cách lệch lạc để chuyển thành sự tự kiêu và ngạo mạn. Nghị lực đích thực là nghị lực của lòng từ bi và sự trong sáng, nghị lực ấy lúc nào cũng khiêm nhường và không bao giờ khô cạn. Nghị lực siêu nhiên còn gọi là Tinh tiến Ba-la-mật, tinh là trong sáng, tiến là vượt lên. Trên mặt thực tế, nghị lực hiển hiện qua sự kiên trì, can đảm, không thối chí, luôn luôn giúp ta nhìn thấy con đường đang đi còn thật xa và ta chưa tiến lên được bao nhiêu. Nghị lực trên đường tu tập không phải là nghị lực chống lại sự mệt mỏi do nổ lực bằng bắp thịt, nhưng là nghị lực của sự hân hoan dựa vào niềm vui sướng khi thực hiện được những điều phải và tích cực. Vì thế, nghị lực cũng như lòng từ bi là một sự cố gắng liên tục, không ngưng nghỉ, không bao giờ tự nhận đã đạt đến tột đỉnh.

Đạo nguyên có nói như sau : « Này những người đang tu tập để đạt đến giác ngộ, ví như có giác ngộ đi nữa, cũng đừng bao giờ ngưng tu tập để đạt được giác ngộ, dù là viện dẫn lý do đã đạt được giác ngộ tuyệt đỉnh. Giác ngộ là vô biên. Hãy tu tập để giác ngộ nhiểu hơn nữa ». Đạo Nguyên lại đưa ra hình ảnh sau đây để diễn đạt ý nghĩa của câu nói ấy :

«Những con cá đang lội và đang lội, nhưng nước không bao giờ chấm dứt.

Những con chim đang bay và đang bay, nhưng không bao giờ không gian chấm dứt»

Vậy nghi lực không bờ bến là căn bản của mọi thành công trên đường tu tập, thiếu nghị lực sẽ không thực hiện được gì cả. Nghị lực siêu nhiên gồm có ba thể dạng như sau :

a) Nghị lực như một thứ áo giáp (samnahaviraya) : nghị lực che chở ta trước sự lười biếng và trì trệ, giúp ta duy trì quyết tâm tu học, một sự quyết tâm sâu xa và chân thật. Khoác lên người chiếc áo giáp của nghị lực không phải là cách biểu dương anh hùng tính hay phô trương sự khổ nhục vì Đạo Pháp. Kinh sách ví chiếc áo giáp nghị lực ấy là một sự che chở trước sự lười biếng và ù lì.

b) Nghị lực trong hành động (prayogavirya) : không bao giờ hẹn sang ngày mai những gì ta có thể thực hiện trong ngày hôm nay, luôn luôn ý thức về vô thường và tính cách mong manh của sự hiện hữu, đó là những phương cách đem đến nghi lực trong sự sinh hoạt của ta. Gân máu dài hàng cây số trong não bộ, chỉ cần một gân máu nhỏ bằng sợi tóc bị đứt cũng làm cho ta ngã xuống, trong số hàng tỷ tế bào trong thân xác, chỉ cần một tế bào chia cắt và nhân lên một cách bấn loạn cũng làm cho ta bị ung thư. Nhưng tùy theo tuổi tác, ta cứ nghĩ rằng ta đang khoẻ mạnh và sẽ còn sống 10, 20, 30, 40…năm nữa, và ta tiếp tục hẹn lại và gác lại sự tu tập. Thiếu nghị lực trong hành động là như thế. Trong tập Chính Pháp nhãn tạng (Shobogenso), Đạo Nguyên có đưa ra hình ảnh của bốn con ngựa : một con phóng chạy khi thấy bóng của cây roi, một con chờ roi chạm vào da mới chạy, một con chờ roi cắt vào thịt mới chạy, một con chờ roi nghiến vào xương mới chạy. Chiếc roi tượng trưng cho vô thường.

Nghị lực trong hành động cũng là cách chống lại sự cám dỗ của những sinh hoạt vô bổ, những giải trí làm tê liệt trí óc, ngăn cản mọi suy luận và sinh hoạt của lý trí : chẳng hạn như nghe nhạc kích động liên miên, chơi những trò chơi điện tử hay xem truyền hình suốt ngày. Có thể xem đó là những loại ma túy tệ hại của xã hội tân tiến ngày nay.

c) Nghị lực vô biên (analamtavirya) : nghị lực Ba-la-mật không có giới hạn, không thể đo lường được, không bao giờ gọi là đủ hay đã đạt đến tối đa. Luôn luôn nên nghĩ rằng những gì đạo hạnh và xứng đáng ta đã thực hiên được đều vô nghĩa, nhỏ nhoi và thiếu sót, cần phải cố gắng nhiều hơn và nhiều hơn nữa. Phải thực thi và duy trì nghị lực cho đến khi nào đạt được Giác ngộ.

5- Sự chú tâm siêu nhiên

Tỉnh thức là một trạng thái mở rộng sự cảm nhận của ta đối với thế giới bên ngoài và những biểu hiện của nội tâm. Thiếu tỉnh thức có nghĩa là ta chỉ thật sự sống một phần nhỏ của sự hiện hữu này mà thôi. Thí dụ ta có phương tiện, ta ăn uống, vui chơi, du lịch và tận hưởng tối đa; như thế không có nghĩa là «đang sống», đó là những biểu hiện của « bản năng sinh tồn », là một cách «vỗ béo» cho cái ngã và làm thoả mãn những đòi hỏi bản năng thấp nhất của thân xác và tâm thức, sống thật sự là ý thức được từng phút giây của hiện tại, ý thức được những cảm nhận của giác quan trên thân xác và sự vận hành của tâm thức trong từng khoảnh khắc. Trong câu 21 của Kinh Pháp cú, Đức Phật có nói như sau : «Xao lãng cũng giống như là đã chết». Lo âu, sợ hãi, bồn chồn, chờ đợi, mưu tính, ước mơ, hy vọng…là những thể dạng của xao lãng.

Tỉnh thức có thể xem như tương đương với chánh niệm trong Bát chánh đạo. Sau khi thực hiện được sự tỉnh thức hay chánh niệm, mới có thể đi xa hơn tức là tập trung suy tư đề quán xét một đối tượng, tập trung là dạng thể tương đương với chánh định, tức sự chú tâm đích thực.

Thể dạng cao nhất của chú tâm là sự quán thấy siêu việt của các đấng như lai (tathagata), sự quán thấy ấy vượt lên trên mọi đối nghịch, mọi khái niệm nhị nguyên và quy ước. Đó mới đích thực là sự chú tâm siêu nhiên, gọi là thiền định Ba-la-mật.

Ba thể dạng vừa kể tương ứng với ba cấp bậc thăng tiến của khả năng trút bỏ được xao lãng và những bấn loạn trong tâm thức. Ba cấp bậc chú tâm ấy được định nghĩa như sau :

a) Sự chú tâm của những người mới tập (sukhaviharayadhyana) : tức là sự chú tâm còn vướng mắc trong mục đích tìm kiếm phúc hạnh và trong sáng bằng cách chận đứng những diễn đạt bấn loạn của tâm thức. Cảm nhận nhưng không diễn đạt một cách hỗn loạn giống như trút bỏ được gánh nặng. Đó là những kinh nghiệm thoải mái và dễ chịu, dễ thu hút người tu tập và làm cho họ bám vào đấy để tìm cách liên tục tái tạo trở lại sự thoải mái, tình thế ấy cũng là một nguy cơ chân đứng sự thăng tiến. Vậy chỉ nên xem trạng thái ấy là một thể dạng thư giản của tâm thức và cần phải tiếp tục đi xa hơn, tức là quán thấy trực tiếp tánh Không.

b) Sự chú tâm quán thấy ý nghĩa minh bạch của mọi hiện tượng (gunanirharayadhyna) : kinh sách xác định thể dạng tâm thức của những người mới tập như vừa kể trên đây là một thể dạng ấu trĩ, giống như một liều thuốc an thần của những người bị bịnh thần kinh ; người bịnh trở thành lệ thuộc và cần đến phương thuốc chữa trị ấy để tìm thấy trạng thái dễ chịu và thoải mái. Vì thế, chận đứng sự diễn đạt của tâm thức chưa đủ, phải tìm hiểu một cách thật lành mạnh và chính xác tánh Không của bất cứ những cảm nhận nào từ giác cảm và tâm thức tạo ra, phải đi xa hơn thể dạng an bình để tìm thấy sự Giác ngộ.

c) Sự chú tâm siêu việt của các bậc như lai (sattvarthakriyanusthanayadhyna) : là sự chú tâm vượt lên trên cả tánh Không, trút bỏ khái niệm về tánh Không, thoát khỏi sự « hiểu biết » về tánh Không. Đó là thể dạng tỉnh thức đến vô cực, một trạng thái thật sâu xa của tâm thức. Trong thể dạng đó mọi tạo dựng của tâm thức, mọi khái niệm và quán thấy nhị nguyên đều tan biến hết.

6- Sự hiểu biết siêu nhiên 

Hiểu biết siêu nhiên là phẩm hạnh cao nhất của Lục Ba-la-mật. Năm phẩm hạnh đầu tiên của Ba-la-mật là năm đối tượng trực tiếp của việc tu tập, phẩm hạnh thứ sáu là kết quả : tức là sự hiểu biết siêu nhiên. Tiếng Phạn gọi sự hiểu biết ấy là Prajna, vần pra đứng trước có nghĩa là trên, phía trên, bên trên, vần jna có nghĩa là hiểu biết. Đối tượng của sự hiểu biết tối thượng hay Prajna là tánh Không. Chữ Prajna được dịch là Trí tuệ (hay Trí huệ), Tuệ nhãn, Tuệ giác…: trí là chiếu thấy, tuệ là hiểu rõ. Tuy nhiên vì tính cách đặc thù của chữ này trong Phật giáo nên các học giả Tây phương có chiều hướng giữ nguyên tiếng Phạn không dịch, trong các bài viết có tính cách phổ thông, chữ Prajna được dịch là Sagesse hay Wisdom…, Kinh sách gốc Hán dịch là Trí tuệ như vừa trình bày trên đây, hoặc âm thẳng từ tiếng Phạn là Bát-nhã hay Ban-nhã. Sở dĩ dài dòng như thế để thấy rằng ngôn từ chỉ có tính cách quy ước, không thể nào diễn đạt một cách trọn vẹn sự thực tuyệt đối.

Tóm lại, năm phép đầu tiên của Ba-la-mật là những phép tu tập, tu tập nhưng không nhìn thấy gì cả, giống như không có mắt, khi Bát-nhã hiển hiện tức là Tuệ nhãn chiếu rọi, tất cả năm phép ấy sẽ trở thành siêu nhiên để tiếp tục trợ lực thêm cho phẩm hạnh thứ sáu. Năm Ba-la-mật được mô tả gần giống nhau trong các kinh sách, trong khi đó Ba-la-mật thứ sáu được trình bày có phẩn khác biệt giữa các học phái. Sau đây là các cách giải thích về sự Hiểu biết siêu nhiên thường thấy :

Cách giải thích thứ nhất

Ba-la-mật thứ sáu gồm có ba giai đoạn hay cấp bậc như sau :

a) Sự hiểu biết khi nghe giảng (trutamayiprajna) : cố gắng ghi nhớ và tìm hiểu các chữ và ý nghĩa của những chữ ấy qua những lời giảng huấn của một vị thầy.

b) Sự hiểu biết bằng suy tư và phán xét (cintamayiprajna) : ôn lại những lời giảng huấn đã nghe, dùng suy tư, phán đoán, nhận xét để tìm hiểu thêm những gì chưa hiểu hết. Phải tận dụng sự quán xét và phân tích để tự tìm hiểu thêm một cách sâu xa trong khi thiền định.

c) Sự hiểu biết bằng thiền định (bhavanamayiprajna) : đạt được sự hiểu biết bằng thiền quán, một sự hiểu biết trong sáng và minh bạch, vượt khỏi mọi do dự và nghi ngờ, quán thấy được thực thể tuyệt đối của mọi hiện tượng.

Cách giải thích thứ hai

Cách giải thích thứ hai cũng chia Trí tuệ Ba-la-mật làm ba cấp bậc, đây là cách giải thích tìm thấy trong Giải thâm mật kinh (Samdhinirmacanasutra) :

a) Sự hiểu biết dựa vào sự thực quy ước : tức bằng ngôn từ và bằng sự hiểu biết công thức, quy ước và nhị nguyên.

b) Sự hiểu biết hướng vào sự thực tối hậu : tức sự thực tuyệt đối, tối hậu và rốt ráo của hiện thực.

c) Sư hiểu biết hướng vào sự an lành của chúng sinh : tức sự hiểu biết xuyên qua lòng tư bi vô biên, vượt lên trên mọi lý luận.

Cách giải thích thứ ba

Đây là cách định nghĩa thường thấy trong Phật giáo Tây tạng, cách này cũng phân chia sự hiểu biết thành ba cấp bậc khác nhau :

a) Sự hiểu biết tạm thời : dựa vào sự thực quy ước của thế giới chung quanh, hàm chứa khía cạnh duy thực của mọi hiện tượng, từ tâm thức đến đối cảnh. Đó là sự hiểu biết chung của tri thức trong lãnh vực khoa học, văn hoá, giáo dục… thuộc cảnh giới chung quanh.

b) Sự hiểu biết « thấp » : tức sự hiểu biết hướng về tính cách vô ngã của cái tôi, cái của tôi, tức là cá thể con người, nhưng không quan tâm đến tính cách vô ngã của đối cảnh.

c) Sự hiểu biết « cao » : tức sự hiểu biết tối thượng về tính cách vô ngã của cá thể con người và của tất cả mọi hiện tượng, tức mọi vật thể và biến cố. Tất cả chỉ là tánh Không.

Cách giải thích thứ tư

Đây là cách định nghĩa thường thấy trong thiền học, đặc biệt là trong các học phái Zen. Sự hiểu biết được phân biệt thành hai loại khác nhau :

a) Sự hiểu biết thông thường : tức sự hiểu biết vận hành trong thế giới quy ước và nhị nguyên. Đó là sự hiểu biết thu đạt được từ kinh nghiệm trực tiếp của giác cảm và sự học hỏi. Sự hiểu biết đó rất cần thiết để cảm nhận thế giới chung quanh, kể cả sự hiểu biết minh bạch về Tứ diệu đế chẳng hạn, nhưng không thể sử dụng sự hiểu biết ấy để nhận biết thực thể của hiện thực.

b) Sự hiểu biết Bát-nhã : tức sự hiểu biết có tính cách trực giác và rốt ráo, quán thấy trực tiếp tánh Không của mọi vật thể và biến cố.

Tóm lại, hầu hết các cách phân loại trên đây dù mang ít nhiều khác biệt nhưng đều đưa đến một định nghĩa giống nhau về sự hiểu biết siêu nhiên trong cấp bậc cao nhất, đó là sự hiểu biết thoát khỏi mọi lý luận nhị nguyên và quy ước. Thí dụ sau đây sẽ cho thấy tính cách nhị nguyên ảnh hưởng đến tất cả những suy luận của chúng ta : chẳng hạn như Niết bàn có thể hình dung như một thể dạng không còn vướng mắc trong nguyên lý tương liên của mọi hiện tượng, cũng không phải là một sản phẩm do nguyên nhân và điều kiện tạo tác, Niết bàn là một biểu hiện của thể dạng tự do tuyệt đối. Nhưng dù hình dung Niết bàn như thế nào đi nữa thì ta vẫn vướng mắc trong nhị nguyên, nếu không có thế giới Ta bà hay Luân hồi đối nghịch với Niết bàn, làm cơ sở chống đỡ cho sự hiện hữu của Niết bàn, thì Niết bàn cũng không có vì không có ý nghĩa gì cả, ngược lại đối với thế giới Ta bà cũng vậy. Bát nhã phải vượt lên trên Niết bàn và Ta bà. Long-chen-pa, một đại sư Tây tạng thế kỷ XIV, có đưa ra hình ảnh sau đây để giải thích khái niệm ấy : nếu một người bị xiềng bằng một sợi giây xích bằng vàng hay bằng sắt thì đâu có gì khác nhau, trong cả hai trường hợp người ấy đều vướng mắc trong cảnh xiềng xích. Vậy muốn đạt được sự hiểu biết siêu nhiên, vượt lên trên mọi quy ước, khái niệm và đối nghịch, cần phải tu tập, tu tập để quán thấy thực thể thực sự của vũ trụ. Sự quán thấy ấy mới đích thực là sự Tự do và Giải thoát.

Kết luận :

Đạo Pháp là một lối sống, một con đường cho ta đi, không phải là một số quy luật dựng lên để áp đặt cho từng người. Đạo Pháp không phải là những giáo điều phải tuân thủ, cũng không phải là một nền văn hoá xác định bằng truyền thống và những khuôn mẫu cá biệt. Đạo Pháp là một triết lý sống, một cách sinh hoạt để phát huy Phật tính trong lòng mỗi người. Giống như trường hợp của Phật tính, Lục Ba-la-mật có sẵn trong ta, nhưng ta không ý thức được, không vun trồng và chăm sóc đến mà thôi. Trong mỗi người, Lục Ba-la-mật có thể là một cổ thụ, hoặc chỉ là một gốc cây héo cằn và èo ọt, nhưng cũng có thể là một hạt giống còn nằm phơi trên cát bỏng.

Biết đâu ngay trong lúc này, hạt giống Ba-la-mật đang nẩy mầm và mọc lên trong lòng ta, ta nên chăm sóc nó. Không phải ta chỉ chăm sóc nó khi đến chùa hay lúc ngồi thiền, nhưng ta nên tưới nó, chăm bón cho nó bất cứ lúc nào : khi ăn, khi làm việc, khi đi hay khi đứng, qua từng lời nói hay trong những phút giây yên lặng. Chăm sóc nó tức là cách chuẩn bị cho Phật tính nở hoa trong ta.

Tuy gốc cây Ba-la-mật mọc lên trong lòng ta, nhưng nó không phải là của ta, nó là sự sống và thuộc về sự sống. Thân xác và tâm thức ta chỉ là những cấu hợp tạm bợ và mong manh, là một mảnh đất cho gốc cây mọc lên.

Một gốc cây cổ thụ chỉ hùng vĩ khi mọc trên một đỉnh núi cao, chỉ an bình và thanh thản khi toả rộng cành lá trong một thung lũng xanh tươi, chỉ tươi mát khi hoà mình trong một khu rừng bát ngát. Đỉnh núi cao là Giác ngộ, khiêm tốn là thung lũng, khu rừng mênh mông là sự sống của tất cả chúng sinh.

Khu rừng Ba-la-mật mênh mông và mầu nhiệm đang chờ đón ta. Việc tu tập cấp bách như lửa bỏng, không nên đánh mất một giây phút nào trong cuộc sống vô thường này. Ta hãy đưa chân để bước thật nhẹ vào khu rừng thầm kín đó trong ta.

MỘT SỐ KHÁI NIỆM TRONG PHẬT GIÁO
Philippe Cornu

Nhìn thấy được sự hiện hữu hiển nhiên của khổ đau trên thế gian này, Đức Phật đã vạch ra một con Đường gọi là con đường Đạo Pháp (Dharma) để giúp chúng ta tự giải thoát khỏi những khổ đau của sự hiện hữu này. Con đường Đạo Pháp đó đòi hỏi chúng ta phải luyện tập kiên trì, trước nhất là phải biết sống đạo đức, tiếp theo là thiền định và sau hết là quán nhận được bản chất của hiện thực. Phương pháp tự giải thoát cá nhân trên đây được xây dựng chung quanh một số khái niệm đặc thù mà ông Philippe Cornu sẽ trình bày dưới đây. (Tạp chí Le Point)
Vài lời giới thiệu của người dịch: Phật giáo phát triển đã từ hơn hai ngàn năm nay, vượt qua không gian và thời gian để thích ứng với tất cả mọi bối cảnh văn hóa và tất cả các nền văn minh nhân loại. Phật giáo vì thế cũng đã trở nên vô cùng phong phú và phức tạp. Kinh sách và các phương pháp tu tập rất đa dạng nên có thể làm cho một số người hoang mang hoặc gặp khó khăn khi muốn tìm hiểu hay tu tập Phật giáo. Thiết nghĩ một bài viết ngắn gọn và chính xác tóm lược một vài khái niệm căn bản của Phật giáo cũng có thể ích lợi cho những người chưa thấu hiểu được Phật giáo là gì và biết đâu cũng có thể giúp ích thêm phần nào cho những người đã từng tu tập lâu nay nhưng vẫn còn mơ hồ không biết mình đang đứng đâu trên con đường Đạo Pháp bao la. 

Thật vậy sự thành tâm, lòng mộ đạo cũng như sự tin tưởng vững chắc vào những lời Phật dạy đôi khi chỉ giúp cho chúng ta xây dựng một nền móng vững chắc góp thêm vào việc tu tập, nhưng chưa hẳn là sự tu tập. Tu tập là phải thấu hiểu giáo lý của Đức Phật để đem ra thực hành trong mục đích ý thức được bản chất của chính mình và quán nhận được hiện thực của vũ trụ này là gì. Sự tu tập đó cũng có nghĩa là phải xây dựng một lâu đài trí tuệ lên trên nền móng của sự thành tâm và mộ đạo. Thiết nghĩ bài viết ngắn được chuyển ngữ dưới đây sẽ có thể giúp chúng ta nhìn thấy cái sơ đồ của lâu đài đó.

Tác giả của bài viết này là Ông Philippe Cornu, một học giả lỗi lạc và hiện cũng là Viện trưởng Viện Đại học Phật giáo Âu châu. Tuy tu tập theo Phật giáo Tây tạng, nhưng kiến thức của ông về Phật giáo nói chung rất bao quát. Bài viết được đăng trong Tạp chí Le Point, số ngoại lệ 5, tháng 2 và 3, năm 2010 với chuyên đề về Đức Phật. Bên cạnh bài viết còn có nhiều phần đóng khung để giải thích cặn kẽ hơn về một vài khái niệm được trình bày trong bài viết hoặc trích dẫn một vài lời giảng trong kinh sách. (Hoang Phong) 

Bát chính đạo, một phương pháp giúp con người tự giải thoát khỏi khổ đau
 
Phật giáo khuyên chúng ta phải suy tư về khổ đau, và như vậy thì Phật giáo có phải là một tôn giáo bi quan hay không? Câu hỏi có lẽ cũng không đến nỗi quá khó để trả lời vì nếu không đủ sức nhận thấy bản chất khổ đau của sự hiện hữu là gì thì làm thế nào để ta có thể loại bỏ được nó. Một bịnh nhân muốn bình phục thì phải biết tự chăm sóc lấy mình, biết tìm đến một vị bác sĩ để khám bịnh, vị bác sĩ sau khi chẩn mạch và khám phá ra nguyên nhân căn bịnh sẽ biên toa để chữa chạy cho người bịnh. Trên đây cũng là ý nghĩa của "Bốn sự thực cao quý" (Tứ diệu đế) (xem thêm phần đóng khung số 1) mà Đức Phật đã thuyết giảng cho các môn đệ đầu tiên của Ngài ở vườn Lộc Uyển (Sarnath). Bốn sự thực ấy là : sự thực về khổ đau, nguồn gốc của khổ đau, sự chấm dứt khổ đau và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau.
 
Khổ đau (tiếng Phạn : duhkha) không phải chỉ giản dị có nghĩa là những khổ đau thuộc thân xác hay tinh thần, mà khổ đau còn bao hàm cả những thể dạng bất toại nguyện và những cảm tính bất an mà tất cả chúng ta đều cảm thấy trong cuộc sống của mình. Nói một cách vắn tắt hơn thì đấy là sự bất toại nguyện của sự hiện hữu. Phật giáo định nghĩa như thế nào về các loại khổ đau đáng quan tâm hơn hết? Trước nhất là khổ đau của khổ đau, bao gồm tất cả những thứ khổ đau hiển nhiên như sự sinh, bịnh tật, già nua và cái chết, kể cả những khổ đau khi phải nhận lãnh những gì mà ta không mong muốn. Sau đó là khổ đau của sự đổi thay, đấy là những thứ khổ đau phát sinh từ thái độ không chịu chấp nhận hiện tượng vô thường. Đó là thứ khổ đau khi ta phải xa lìa một người hay những người nào đó mà ta yêu quý, hoặc là khổ đau khi ta không đạt được những gì mà ta mong muốn. Tóm lại đấy là loại "khổ đau đang được hình thành" (có nghĩa đi kèm theo sự sống), bắt nguồn từ tình trạng bất toại nguyện về sự hiện hữu và từ thái độ bám víu của ta vào một "cái tôi": ngay cả trong trường hợp mà mọi sự có vẻ như suông sẻ thì khổ đau vẫn cứ tiềm ẩn một cách kín đáo ở bên trong. Thật vậy, Đức Phật đã vạch ra cho chúng ta thấy rằng nguyên nhân làm phát sinh ra khổ đau chính là sự "thèm khát", có nghĩa là sự khát khao ước mong được hiện hữu, được hưởng mọi thứ lạc thú do các giác quan mang lại, hoặc ngược lại khi mà mọi sự không còn trôi chảy nữa thì lại mong muốn loại bỏ những gì làm phát sinh ra sự trói buộc (karma) (nghiệp). Sự "thèm khát" là hậu quả phát sinh từ sự tin tưởng vào một "cái tôi", nhưng "cái tôi" ấy trên thực tế lại chỉ là một thứ ảo giác phát sinh từ vô minh mà thôi. Dầu sao thì ta vẫn có thể làm cho khổ đau phải chấm dứt bằng cách từ bỏ mọi sự "thèm khát", có nghĩa là tháo gỡ được mọi sự chi phối của "cái tôi".
 
Nếu không có nguyên nhân thì cũng sẽ không có hậu quả, không có hậu quả cũng có nghĩa là không còn khổ đau: và đấy cũng chính là thể dạng của niết bàn (nirvana). Muốn đạt được niết bàn thì phải dựa vào Bát chính đạo (tiếng Phạn: Aryastangikamarga), tức là tám điểm chính yếu (hiểu biết đúng, ý định đúng, ngôn từ đúng, hành vi đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng, tập trung tâm thức đúng). Theo kinh sách thì tám điểm chính yếu trên đây được gom chung vào ba phép tu tập giúp mang lại sự Giác ngộ. Ba phép tu tập ấy là : giữ gìn đạo đức, tạo ra sự tĩnh tâm nhờ vào thiền định và sau hết là trí tuệ. Hướng vào đạo đức có nghĩa là giữ cho lời nói và hành động được đúng đắn, sinh sống bằng những phương tiện ngay thẳng, không gây ra thiệt hại cho người khác. Thiền định (xem thêm phần đóng khung số 5) là cách cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung tâm thức đúng để làm lắng xuống mọi dao động tâm thần, loại bỏ mọi xúc cảm hoang mang để có thể quán thấy được hiện thực một cách trong sáng trong mục đích mang lại trí tuệ, và trí tuệ thì có nghĩa là sự cảm nhận đúng và sự suy nghĩ đúng, dùng làm chìa khóa để mở ra cánh cửa của Giác ngộ và mang lại sự Giải thoát. Đức Phật không hề phủ nhận các thể dạng hạnh phúc tương đối, mà Ngài bảo đấy chỉ là những thứ hạnh phúc rất mong manh. Cái hạnh phúc thật sự mà Ngài mong muốn chúng ta phải nhìn thấy chính là cái hạnh phúc lâu bền của niết bàn, một thứ hạnh phúc "phi điều kiện" (có nghĩa là vượt lên trên mọi điều kiện, không lệ thuộc vào một thứ điều kiện nào cả, tức là đạt được một sự tư do đích thực). 

Vô thường
 
Đó là tính chất phù du của sự hiện hữu. Không có gì trường tồn, tất cả đều đổi thay. Đã sinh ra thì phải gánh chịu sự già nua đưa đến cái chết. Vì thế không có một thứ gì kể cả uy quyền, tiền bạc, cho đến sự yêu thương quấn quít, có thể cứu ta khỏi cái chết. Tuy hiểu rằng cái chết chắc chắn không thể nào tránh khỏi được, nhưng mà nó sẽ xảy ra vào lúc nào, nơi nào và như thế nào thì ta lại không thể biết trước được. Đấy là một sự thực quá sức nặng nề cho con người có thể chấp nhận dễ dàng để căn cứ vào đấy mà rút tỉa những gì thiết thực. Con người chỉ muốn tin là mình vĩnh cữu (chết thì sẽ lên thiên đường để tiếp tục sống bất tận). Sự quyết tâm chối bỏ không chấp nhận những gì chấm dứt sẽ phải chấm dứt là một trong những nguyên nhân chính yếu mang lại khổ đau. Biết suy nghĩ về vô thường sẽ giúp chúng ta xóa bỏ được lòng khát khao mong muốn khắc phục mọi trở ngại để tiếp tục hình thành (sống mãi). Ý thức được vô thường sẽ giúp chúng ta nhìn thấy giá trị của kiếp sống mong manh này để hướng nó vào con đường đưa đến Giác ngộ (xem thêm phần đóng khung số 2).

Các hiện tượng do điều kiện mà có

"Giống như các vì sao, những con ruồi đang bay hay ngọn lửa của một chiếc đèn dầu. Giống như một ảo giác ma thuật, một giọt sương mai hay một bọt nước. Giống như một giấc mơ, một tia chớp hay một bóng mây : Đấy là cách mà chúng ta phải nhìn vào mọi hiện tượng phát sinh bằng cách lệ thuộc vào điều kiện" Trên đây là một đoạn trích dẫn từ một tạng kinh Phật, (Kinh Kim Cương).
 
Tất cả những gì sinh ra đều phải tiêu tan : đấy là bản chất của những gì mà Phật giáo gọi là những "hiện tượng do điều kiện mà có" (hiện tượng phát sinh dựa vào nhiều điều kiện). Kể cả con người chúng ta và những gì mà chúng ta cảm nhận được, tất cả đều phải lệ thuộc vào thật nhiều điều kiện để sinh ra, điều đó cũng có nghĩa là sự hiện hữu của tất cả mọi hiện tượng đều là hậu quả phát sinh từ nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện. Tuy nhiên phải hiểu rằng các hiện tượng đại loại như thế không mang đặc tính của một đơn vị thuần nhất, chúng không độc lập và cũng không trường tồn bất biến. Người ta gọi đấy là những hiện tượng "cấu hợp" (tiếng Phạn : samskrita) bởi vì chúng là kết quả sinh ra từ sự kết hợp của nhiều thành phần, các thành phần ấy tượng trưng cho các điều kiện cần thiết để tác tạo ra chúng. Và phần chúng thì chúng lại làm nguyên nhân hay điều kiện để tác tạo ra các hiện tượng khác cùng một thể loại như thế (tức là do điều kiện mà có). Các hiện tượng như vừa kể sau khi đã dự phần vào việc tác tạo ra các hiện tượng khác sẽ đương nhiên tự hủy diệt, bởi vì khi đã trở thành nguyên nhân (để tác tạo ra các hiện tượng khác) thì chúng sẽ không còn thể nào tiếp tục tồn tại chung với các hậu quả do chính chúng đã làm phát sinh ra (nguyên nhân khi đã phát sinh thành hậu quả thì sẽ không còn là nguyên nhân nữa, hậu quả phát sinh sẽ trở thành nguyên nhân cho những hậu quả mới sẽ xảy ra sau này, vì thế nguyên nhân sẽ không bao giờ có thể còn tồn tại sau khi đã phát sinh ra quả). Tất cả các hiện tượng trong thế giới vật chất cũng như tâm thần đều là những hiện tượng do điều kiện mà có, vì thế chúng đều mang tính cách giai đoạn, (tại sao lại gọi là «giai đoạn»? Bởi vì khi nguyên nhân phát hiện thành ra quả thì tự nó sẽ biến mất, quả sẽ trở thành một nguyên nhân mới và nguyên nhân mới đến lượt nó cũng sẽ biến mất sau đó khi đã trở thành quả mới. Quy luật này rất quan trọng vì dựa vào đó chúng ta sẽ hiểu tại sao mọi hiện tượng lại vô thường và tại sao lại có luật nhân quả chi phối mọi hiện tượng).

Sự tạo tác do điều kiện
 
Đó là sự tạo tác tương liên của các hiện tượng lệ thuộc (tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ đều được tạo tác bằng một phương cách như thế, có nghĩa là phải hội đủ nhiều "điều kiện". Nói một cách khác là phải hội đủ các thành phần cần thiết và các cơ duyên thuận lợi, cơ duyên giữ vai trò kết hợp các thành phần để tạo ra hiện tượng, thiếu một thành phần hay một cơ duyên tức có nghĩa là thiếu một điều kiện nào đó thì hiện tượng sẽ không xảy ra được. Tu tập cũng là cách xóa bỏ một hay nhiều điều kiện làm cho nghiệp không thể nào phát hiện thành quả). Đây là một khái niệm thật đặc thù do chính Đức Phật đưa ra, khái niệm đó đứng vào một vị thế trung gian giữa hai quan điểm cực đoan: Một bên là chủ nghĩa hư vô, chủ trương sau khi chết thì không còn gì cả, tất cả đều bị tan biến, từ con người, hành động cho đến mọi nguyên nhân và mọi hậu quả gây ra; Một bên là chủ nghĩa vĩnh hằng công nhận sự trường tồn và vĩnh cữu của các hiện tượng qua hình thức một vị Trời sáng tạo, hay là nhờ vào một thứ gọi là linh hồn hay "cái Ngã" mang tính cách vĩnh cữu. Sự tạo tác do điều kiện mà có là một quy luật toàn cầu áp dụng cho tất cả mọi hiện tượng, (không có một ngoại lệ nào cả). Bất cứ một thứ gì hiện hữu nhờ vào nhiều nguyên nhân và nhiều điều kiện thì tự chúng sẽ đương nhiên không hàm chứa một thực thể hay một sự tự tại nào cả, và nhất thiết chúng chỉ là những tổng hợp mang tích cách nhất thời, (đây là các luận cứ dùng để giải thích Tánh không của mọi hiện tượng, nhưng tác giả Philippe Cornu lại không khai triển khái niệm này trong bài viết của ông, tại sao lại như thế ? Xin xem thêm ghi chú của người dịch trong phần cuối bài).
 
Vì là vô thường nên các hiện tượng cấu hợp sẽ lôi kéo nhau (nguyên nhân sinh ra quả, quả trở thành nguyên nhân, các hiện tượng thay nhau hiển hiện và biến mất một cách liên tục...) để tạo thành những chuỗi dài liên tiếp không gián đoạn, sự tiếp nối đó hoàn toàn không mang tính cách ngẫu nhiên (hay ngẫu biến) : một hạt lúa gạo sẽ nẩy mầm để trở thành một cọng lúa cho ra thóc, không thể nào có thể biến thành một cọng lúa mì. Sự thật trên đây là những gì trái ngược lại với mô hình mà chúng ta (người Tây phương) đã được thừa hưởng từ Aristote (triết gia Hy lạp thời cổ đại, -384 -322, chủ trương sự tồn tại là một « chất liệu » mang tính cách thực thể, khái niệm này đã ảnh hưởng toàn diện nền văn hóa và triết học Tây phương) cho rằng mỗi hiện tượng đều hàm chứa một bản thể hay ousia (tiếng Hy lạp ousia có nghĩa là quyền sở hữu hay một bản thể nhất định và tự tại) trường tồn và bất biến không đổi thay dù cho sự biến đổi về hình dạng có thể xảy ra. Đối với khái niệm về sự tạo tác do điều kiện (của Phật giáo) thì hiện tượng chỉ là một sự biểu hiện mang đặc tính nhất thời (không hàm chứa một bản thể tự tại giống như quan niệm về bản thể của Aristote). Chẳng hạn như một hạt giống mang các đặc tính như hình dáng thon dài, có một độ cứng nào đó,v.v..., nhưng khi nẩy mầm thì lại trở thành một hiện tượng khác, mang các đặc tính khác: chẳng hạn như mầm cây có đặc tính mềm, mầm mọc thành thân dài v.v... Hiện tượng trước đây (tức là hạt giống) tự hủy hoại để góp phần làm phát sinh ra hiện tượng xảy ra sau đó (tức là mầm cây). Đối với nguyên tắc tạo tác do điều kiện thì sẽ không có khởi thủy mà cũng chẳng có sự chấm dứt nào cả, (xem thêm phần đóng khung số 3), (mọi hiện tượng liên tục tiếp nối nhau : nguyên nhân sinh ra hậu quả, hậu quả lại làm nguyên nhân để làm phát sinh ra những hậu quả khác..., sự níu kéo đó không có khởi thủy cũng không có chấm dứt). 

Ngũ uẩn (skandha), hay là các cấu hợp do sự thu góp các thành phần mà có
 
Một nhân dạng được tạo tác bởi một tổng hợp nhất thời gồm có nhiều thành phần vừa vật chất vừa tâm thần. Phật giáo gọi các thành phần ấy là năm thứ cấu hợp mang tính cách cá thể (tiếng Phạn : skandha) (kinh sách tiếng Việt và tiếng Hán gọi là ngũ uẩn). Cấu hợp thứ nhất là rupaskanda hay là cấu hợp hình tướng tức là thân xác vật chất, cấu hợp này gồm có bốn thành phần - đất (thịt xương), nước (các chất lỏng), lửa (quá trình sinh lý) và không khí (hô hấp và các cử động) - ; các cơ quan giác cảm, tức là các "cửa sổ" để tiếp xúc với thế giới bên ngoài ; và sau hết là các dạng thể mà các giác quan nhận biết được (chẳng hạn như hình tướng, màu sắc, âm thanh, mùi, vị và các cấu thể như cứng mềm...). Nói một cách khác đó là sự tiếp xúc của thân xác với thế giới bên ngoài. Cấu hợp thứ hai gọi là vedana, đấy là cấu hợp phát sinh từ tính năng của các giác cảm khi tiếp xúc với các đối tượng bên ngoài. Sự cảm nhận đó của giác cảm có thể êm ái, khó chịu hay trung hòa, chúng phát sinh từ những nhân tố kích thích (stimuli) thuộc vào thế giới bên ngoài và giữ vai trò thông báo cho chúng ta biết về những gì đang hàm chứa trong các nhân tố đó. Cấu hợp thứ ba là samjna, còn gọi là những « biểu thị tâm thần » (những hình ảnh thể hiện trong tâm thức), đó là những ý nghĩ (ý niệm, khái niệm) mà ta tự tạo ra để chỉ định những hiện tượng do các giác quan cảm nhận được, và gán cho chúng những nhãn hiệu thích nghi tùy theo các thuộc tính của chúng. Chẳng hạn như khi tôi nhìn thấy một hiện tượng có màu đỏ và sáng, tỏa chiếu ra chung quanh, chập chờn và tỏa ra hơi nóng, thì tôi xác định đấy là lửa. Trong một dịp khác khi tôi trông thấy một hiện tượng giống như thế thì tôi xác định ngay đấy là lửa. Cấu hợp thứ tư gọi là samskara, đó là sức mạnh tác động sinh ra từ những hành động trong quá khứ, tác động trong tâm thức tôi để tạo ra ảnh hưởng chi phối những cảm nhận của tôi trong hiện tại (có nghĩa là sức mạnh tác động của nghiệp trong quá khứ chi phối sự cảm nhận của các giác quan và tri thức trong hiện tại) kể cả những phản ứng của tôi trong tương lai. Nói một cách khác thì đấy là các thể dạng trói buộc hay lệ thuộc tạo ra từ các thói quen suy nghĩ mà tôi đã có từ trước. Cấu hợp thứ năm gọi là vijnana, là cấu hợp kết nạp năm tri thức của giác cảm (thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác và xúc giác) và tri thức tâm thần (Phật giáo xem tri thức tâm thần là giác quan thứ sáu), đúng hơn là tri thức tâm thần góp nhặt tất cả các tín hiệu do năm tri thức giác cảm thông báo để tạo ra một sự mạch lạc nào đó để diễn tả về thế giới chung quanh và cả bản thân của chính ta. 
 Tóm lại có thể nói rằng một "cá thể nhân dạng" được thành lập do sự kết hợp của một lô những hiện tượng mang tính cách nhất thời. Sự kết hợp những hiện tượng đó xảy ra ngay từ lúc mới bắt đầu thụ thai, và sẽ tan rã sau đó, và sự tan rã ấy gọi là cái chết. Các cấu hợp sinh ra và chết đi trong từng khoảnh khắc một, sự vận hành của hiện tượng vô thường tinh tế ấy đôi khi có thể vượt khỏi khả năng cảm nhận của các cơ quan giác cảm của ta. Tuy thế ta lại vẫn cứ dựa vào nền tảng của năm thứ cấu hợp trên đây để hình dung ra một "cái tôi cá thể" trường tồn, giống như một chủ thể mang chức năng chỉ huy hay một thứ chủ nhân ông vĩnh cửu. 

Nghiệp (karma)
 
Thật ra đó là một khái niệm thuộc vào nền văn hóa cổ xưa của Ấn độ mà Đức Phật đã dùng trở lại với một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn, nghiệp (karma) là một hành động đã được thực thi (nếu hành động không xảy ra thì không tạo thành nghiệp), mang chủ đích duy trì và kéo dài cảm tính về một "cái tôi" trường tồn (có nghĩa là nếu không có cái cảm tính về một "cái tôi" trường tồn thì nghiệp sẽ không có cơ sở để phát sinh ra quả và lôi kéo theo sự tái sinh của chủ thể đã hành động). Nói một cách khác thì trước hết nghiệp là một sự chủ tâm (cetana) phát hiện trong tâm trí và có thể sau đó sẽ chuyển thành một hành động trên thân xác hay biến thành ngôn từ. Sự chủ tâm đó là một nguyên nhân và nhất định nó sẽ mang lại một hậu quả. Vậy từ nơi đâu đã phát sinh ra sự chủ tâm ấy ? Chính là trong tâm thức. Sự chủ tâm ấy lưu lại những dấu vết ở đâu? Chính là trong tâm thức. Sự chủ tâm chín muồi ở đâu? Cũng chính là trong tâm thức, (xem thêm phần đóng khung số 4). Đối với một hành động nhân từ cũng thế, sự tạo nghiệp của nó luôn luôn phát sinh từ thái độ tự xem mình là trung tâm (ích kỷ), và đấy cũng có nghĩa là sự chủ tâm (tạo ra nghiệp) là một thứ cảm tính (tức là một thứ xúc động), cảm tính đó có thể mang tính cách tích cực, chẳng hạn như sự nhiệt tình giúp đỡ người khác, hoặc tiêu cực như tước đoạt một vật gì đó bằng bạo lực. Dù là một hành động đạo đức hay thiếu đạo đức thì nó vẫn là một hành động tạo tác do điều kiện, vì thế nó vẫn tạo ra hậu quả cho chủ thể của hành động ấy, dù đấy là một thứ hậu quả tốt hay bất hạnh.
 
Chủ tâm phát hiện giống như một xung năng thấm sâu vào tâm thức, chuyển hóa dần dần và sẽ thể hiện trở lại khi gặp được các điều kiện mới thích nghi giúp cho nó chín muồi và trở thành quả : có nghĩa là một hoàn cảnh mới phát hiện và mang cùng một xung năng như trước. Trong suốt thời gian mà năng lực của nghiệp tiếp tục kéo dài ngấm ngầm trong tâm thức thì người ta gọi đấy là samskara, tức là cấu hợp thứ tư (của ngũ uẩn), đấy là nhân tố tạo tác hay năng lực tác động của nghiệp, và năng lực ấy sẽ quyết định các đặc tính cho hoàn cảnh mới của chính ta sau này.
 
Dầu cho tác động của nghiệp có bị trì hoãn và lưu lại lâu dài (qua nhiều kiếp sống chẳng hạn), thì khi trở thành chín muồi nó vẫn nằm trên dòng tri thức đã làm phát sinh ra nó từ trước : do đó mà nghiệp luôn luôn mang tính cách cá nhân. Khi nghiệp chín muồi nó sẽ tự chấm dứt. Tuy nhiên nếu có bất cứ một phản ứng nào xảy ra tiếp theo đó và mang chủ đích xem mình là trung tâm (tác động của "cái tôi") thì nhất định nó sẽ làm phát sinh ra những năng lực tác động mới. Tóm lại, hành động sẽ tạo ra quả, quả lại xui khiến một hành động khác xảy ra tiếp theo, và sự níu kéo ấy cứ tiếp tục như thế cho đến khi nào nó chưa bị cắt đứt (có nghĩa lá phải cần đến sự tu tập để có thể cắt đứt sự níu kéo bất tận đó của nghiệp và quả), sự hiện hữu của chúng ta là một hiện tượng tạo tác do điều kiện (điểu kiện ở đây có nghĩa là chuỗi dài níu kéo của nghiệp và quả) cũng sẽ tiếp nối dai dẳng trong sự vướng mắc như thế.

Thế giới ta-bà (samsara), sự tái sinh và đầu thai
 
Samsara hay thế giới ta bà có nghĩa là chu kỳ của sự hiện hữu liên tục mà chúng sinh phải gánh chịu, đấy là hậu quả phát sinh từ ảo giác của những chúng sinh ấy. Sự hiểu biết minh bạch của nghiệp sẽ giúp hiểu biết được dễ dàng hiện tượng tái sinh liên tục : mỗi kiếp sống là quả phát sinh từ nghiệp trong quá khứ. Tuy nhiên dù đã hiểu được như thế nhưng trong kiếp sống này ta vẫn cứ tiếp tục tạo ra thêm vô số nghiệp mới. Khi các nghiệp quá khứ đã khánh kiệt và cái chết xảy ra thì chuỗi dài tiếp nối của dòng tri thức của mỗi cá thể chỉ có thể tiếp tục nổi trôi và lang bạt (trôi nổi trong cõi luân hồi) khi nào nó còn bị tiếp tục chi phối bởi những năng lực tác động phát sinh từ nghiệp gây ra trong chính kiếp sống vừa chấm dứt. Năng lực tác động của nghiệp sẽ hướng dòng tri thức đang lang bạt ấy vào một sự hiện hữu mới bằng cách tạo ra các cấu hợp ngũ uẩn mới cho sự hiện hữu đó.
 
Vậy người ta có thể hiểu sự kiện ấy như là một hiện tượng đầu thai hay không ? Hoàn toàn không, bởi vì không phải là một "cái tôi" (tiếng Phạn : atman) đã hiển hiện trở lại trong một thân xác khác, mà đúng hơn là một luồng chuyển động tâm linh (tâm thần hay tri thức) phát sinh dưới sự chi phối của các kinh nghiệm cảm nhận trong kiếp sống trước (tạo tác do điều kiện) tiếp tục thu góp những kinh nghiệm mới qua trung gian của một cơ sở cảm nhận mới thuộc vào kiếp sống sau. Vì thế, không phải là cùng một nhân dạng hiện hữu trước đây đã tái sinh trở lại mà cũng không hẳn là một nhân dạng khác, lý do là chuỗi tiếp nối tâm linh của một cá thể biến đổi không ngừng trong từng khoảnh khắc một, tuy nhiên phải hiểu rằng mỗi khoảnh khắc tâm linh đang được hình thành bắt buộc phải lệ thuộc và tương liên với khoảnh khắc tâm linh xảy ra trước đó.
 
Sự nghịch lý của một sự tiếp nối nằm bên trong một hiện tượng không liên tục như thế có thể giải thích bằng hình ảnh của một con sông, con sông thì lúc nào cũng là một con sông nhưng nước thì lại đổi mới không ngừng. Người ta căn cứ vào các thể dạng giận dữ, tham lam, đần độn, hám dục, ganh ghét hay kiêu căng để phân chia thành sáu loại ảo giác khác nhau hay là sáu "cõi" (lục đạo) : gồm có địa ngục, quỷ đói, súc sinh, người, thánh nhân và thiên nhân. Chúng sinh sẽ rơi vào một trong các cõi ấy tùy thuộc vào hình thức đam mê của mình, và họ có thể sống trong hết cõi này rồi lại chuyển sang cõi khác, tất cả đều tùy thuộc vào nghiệp của cá nhân họ. Dù cho ta là một vị trời hay một con gián, thì thân xác và bối cảnh mà ta đang sống đều là quả phát sinh từ những nghiệp của chính ta.
 
Vì thế sự hiện hữu của con người chỉ là một cảnh huống tạm thời trong số muôn ngàn cảnh huống khác ; ngoại trừ một vài trường hợp nào đó có thể gọi là khá tốt đẹp, còn lại thì sự sống tạm bợ này chỉ hàm chứa một lợi điểm duy nhất là tạo ra một dịp may giúp cho ta lợi dụng để loại bỏ được ảo giác mà tự giải thoát cho mình ra khỏi chu kỳ trói buộc của luân hồi.

Vô minh (Avidya)
 
Nguyên nhân sâu xa làm phát sinh ra thế giới ta bà là những ảo giác mang lại sự tin tưởng vào sự hiện hữu của một "cái tôi" và sự thèm khát được tiếp tục sinh khởi (sống mãi). Sở dĩ những thứ ấy phát sinh là vì vô minh (avidya) tức sự u mê căn bản che lấp không cho chúng ta nhìn thấy tính cách trói buộc của sự hiện hữu và xui khiến chúng ta cho là thật những gì không phải thật. Tâm trí của chúng ta bị vô minh làm cho ô nhiễm nên đã đánh tráo hiện thực bằng những sự cả tin sai lầm. Sau hết là sự ám ảnh của một "cái tôi" trường tồn đã xui khiến chúng ta tìm đủ mọi cách để bảo vệ nó, và từ đó phát sinh ra sự mù quáng (si mê), sự thèm khát được chiếm hữu (tham) hoặc là sự thù ghét (sân), đấy là ba thứ nọc độc mà Phật giáo đã nêu lên, ba thứ nọc độc ấy làm phát sinh ra đủ mọi thứ dục vọng khác như ganh tị, keo kiệt, giận dữ, hận thù và lười biếng. Đấy là những gì mang bản chất thô lậu thúc đẩy những ý đồ tạo nghiệp, làm nguồn gốc mang lại mọi thứ khổ đau. Tâm thức bị hai tấm màn che phủ làm cho nó trở nên u mê : tấm màn thứ nhất là tấm màn nhận thức đánh lạc sự hiểu biết, và tấm màn thứ hai là tấm màn dục vọng làm hiện lên trong tâm thức mọi thứ ảo giác của thế giới ta bà. Con Đường Đạo Pháp là con đường kết hợp cả ba phép tu là : tuân thủ giới luật, thiền định (xem thêm phần đóng khung số 5) và trí tuệ, giúp cho chúng ta rọc rách hai tấm màn của vô minh và dục vọng để quán nhận được hiện thực.

Vô ngã (anatman)
 
Khi nào ý thức được "cái tôi" cá nhân làm nòng cốt cho sự hiện hữu của ta thật ra chỉ là một sự tạo dựng tâm thần, không hề hàm chứa bất cứ một hiện thực tối hậu nào, thì khi đó cái lâu đài xây dựng bằng những cảm tính tự xem mình là trung tâm sẽ đương nhiên bị sụp đổ. Tuy vậy cũng phải hiểu rằng không phải vì thế mà cá tính của một cá thể cũng sẽ bị mất theo, nó vẫn còn nguyên vẹn không sứt mẻ một chút nào. Đức Phật không hề tìm cách phá vỡ một cá thể con người hay chối bỏ không thừa nhận một "cái tôi" có tinh cách quy ước của chúng ta, mà thật ra thì Ngài chỉ cố gắng giảng giải giúp cho chúng ta nhìn thấy thái độ bám víu mù quáng và bướng bỉnh của chúng ta vào một "cái tôi" trường tồn là một sự lầm lẫn, là nguồn gốc của mọi đớn đau và các hành động sai lầm. Trong những giây phút lắng sâu vào thiền định (xem thêm phần đóng khung số 5) nếu ta tập trung sự chú tâm để phân tích và tìm kiếm cẩn thận xem "cái tôi" ấy của ta đang ở đâu trong các thành phần ngũ uẩn, thì nhất định ta sẽ không thể nào tìm thấy nó. Ta không thể quy cho "cái tôi" ấy thuộc vào thành phần thân xác, cũng không thể gán cho nó thuộc vào các giác cảm, nó không thuộc vào các biểu hiện tâm thần, cũng không phải là một thứ năng lực của nghiệp hay là một thành phần nào cả của tri thức. Nó không phải là một chủ nhân ông làm sở hữu chủ các thành phần cấu hợp, cũng không phải là sở hữu chủ của tổng thể tất cả các cấu hợp. "Cái tôi" đó không phải là một thực thể để có thể phân tích và tìm thấy được nó (cái tôi chỉ là một sự tạo dựng của tâm thần, một sản phẩm của tưởng tượng). Làm thế nào mà một tổng thể các hiện tượng mang tính cách cấu hợp (tức tạm thời và vô thường) lại có thể chứa đựng được một "cái tôi" mang tính cách trường tồn và bất biến ? Khi Đức Phật giảng rằng : "Tất cả mọi hiện tượng đều vô ngã" thì Ngài muốn ám chỉ là tính cách vô ngã ấy có giá trị đối với tất cả mọi hiện tượng, không có một ngoại lệ nào, dù cho chúng lệ thuộc vào điều kiện hay độc lập không tùy thuộc vào bất cứ một điều kiện nào cũng thế, tức là kể cả Niết bàn và sự Giác ngộ.

Niết bàn nirvana, hay là thể dạng phi điều kiện
 
Niết bàn là một thể dạng mà nơi đó tất cả mọi khổ đau đều được lắng xuống. Niết bàn không phải là cảnh giới thiên đường đầy phúc hạnh mà cũng chẳng phải là cõi hư vô, đúng hơn đấy là một cảnh giới tâm linh mà nơi đó không còn tồn tại bất cứ một điều kiện trói buộc nào, tất cả đã tắt nghỉ giống như một ngọn đèn đã cạn dầu. Đó là sự chấm dứt (nirodha) của mọi khổ đau. Tuy nhiên, người ta cũng có thể tự hỏi nếu như không có một "cái tôi" cá nhân nào cả thì ai sẽ nhập vào niết bàn? Chính là trí tuệ bên trong nột tâm của chúng ta phát hiện ra niết bàn khi tấm màn che phủ tâm thức đã bị tan biến. Đối với Phật giáo Nguyên thủy thì chính vị A-la-hán sẽ vĩnh viễn nhập vào niết bàn khi cuộc sống của vị ấy trong thế gian này đã chấm dứt, vị ấy đã cắt bỏ mọi được mọi mối dây ràng buộc mình vào thế giới này và như thế vị ấy sẽ không còn tham gia vào thế giới này nữa. Đối với Đại thừa Phật giáo thì khác hơn, niết bàn của chư Phật và của các vị đại Bồ tát đã hoàn toàn giác ngộ, mang tính cách rất năng động và tích cực : mặc dù đã đạt được thể dạng không còn lệ thuộc vào điều kiện nữa, nhưng trước sự khổ đau của chúng sinh các vị ấy vì lòng từ bi vẫn tiếp tục tham gia vào thế giới này. Thật ra suốt trên đường tu tập thì lúc nào họ cũng đem tấm lòng vị tha của họ để tự buộc mình với tất cả chúng sinh. Vì thế mà người ta thường bảo rằng không thể nào tách hai cõi ta bà và niết bàn rời ra khỏi nhau, thật vậy sự hiểu biết về Tánh không của những biểu hiện bên ngoài đã lột bỏ các ý nghĩa mang tính cách lừa phỉnh của cả hai thể dạng ấy (có nghĩa là khi đã hiểu được Tánh không là gì sẽ không còn phận biệt giữa niết bàn và ta bà nữa, đấy chỉ là những tạo dựng của tâm thức mang tính cách công thức và quy ước mà thôi), tuy nhiên không phải vì thế mà có thể xóa bỏ đi những biểu hiện của chúng (ta bà và niết bàn theo định nghĩa công thức và sự hiểu biết quy ước của chúng ta thì không có, nhưng những biểu hiện đích thực của chúng thì lúc nào cũng tác động trong tâm thức của mỗi chúng sinh và trong không gian của vũ trụ này).

Con đường Trung Đạo
 
"Này các người tu hành khổ hạnh, có hai thái cực mà những ai đã [tự nguyện] rời bỏ gia đình thì không nên tham gia vào: đó là việc thực hành lạc thú, đam mê lạc thú sinh ra từ giác cảm; hoặc [ngược lại] tự hành hạ mình, nếu thực thi những thứ giáo điều không chính đáng ấy thì thân xác và tâm thức sẽ bị kiệt quệ mà không còn [đủ khả năng lưu] giữ những gì đã [gặt hái được từ sự] tu tập. Này các người tu hành khổ hạnh, ngoài hai thái cực đó ra còn có một Con đường Trung Đạo [...] " (Kinh Vinaya - Dharmaguptaka, (Pháp tạng bộ), trích từ quyển La Voix du Bouddha, do André Bareau dịch, nhà xuất bản Kiron-Philippe Lebeaud, 2001). 
 
Đó là những lời Phật dạy về con đường đứng vào giữa hai lối sống : một bên là lối sống của một người thế tục làm chủ gia đình chỉ biết có bổn phận đối với gia đình mình và những lo toan vật chất, một bên là lối sống của những người tu hành khổ hạnh, tín đồ của chủ nghĩa hành xác thật khủng khiếp mà chẳng mang lại lợi ích gì. Tham gia vào tăng đoàn còn gọi là sanga, tức là "thoát ra khỏi thế giới này" và có nghĩa là từ bỏ những phương tiện sinh sống và những lo toan của thế tục để chọn lấy một lối sống thanh đạm, giảm bớt tối đa các nhu cầu cá nhân để dồn tất cả thì giờ vào con Đường Đạo. Trên phương diện triết học, thì Trung Đạo có nghĩa là con đường đứng vào giữa hai quan điểm cực đoan: một bên là chủ nghĩa hư vô, đó là thứ chủ nghĩa mà Phật giáo hoàn toàn không chấp nhận và một bên là chủ nghĩa trường tồn. Dù là mang ý nghĩa thực tế của một lối sống không thái quá hay là mang một quan điểm triết học không cực đoan, thì con Đường Đạo lúc nào cũng hướng ta vào một mục đích thật rõ rệt là tìm kiếm sự Giải thoát và Giác ngộ mà không bị rơi vào một vị thế quá đáng (cực đoan).

Lòng từ bi hay Karuna
 
Toàn thể giáo lý của Đức Phật đều nhắm vào mục đích khuyến khích chúng ta thực thi lòng từ bi và kính trọng người khác. Chính vì lòng từ bi (karuna) đối với chúng sinh đang khổ đau mà Đức Phật đã đứng ra thuyết giảng. Các nhà sư lão thành thì cứ theo đó mà thuyết giáo, khuyên nhủ, giảng dạy cho người thế tục, họ không hề biết mệt là gì và còn thề nguyện tránh không làm hại đến bất cứ ai. Đặc biệt trong Đại thừa Phật giáo, lý tưởng hy sinh của người Bồ tát đã chứng tỏ được tầm quan trọng của lòng từ bi. Thật ra thì lòng từ bi không phải chỉ đơn giản có nghĩa là sự xúc động trước khổ đau của người khác, mà còn phải biết dựa vào trí tuệ để lựa chọn những phương tiện thiện xảo (upaya) nhất để giảng giải cho người khác, giúp người khác loại bỏ được nguyên nhân của khổ đau. Đức Phật không hề tự xưng mình là một vị cứu tinh mà Ngài chỉ nhận mình là một người đứng ra khuyên nhủ các đệ tử của mình bằng cách đưa ra các phương pháp thích nghi giúp cho họ tự chống chỏi với khổ đau trong sự hiện hữu của chính họ. Vì thế mà từ bi và trí tuệ luôn phải đi đôi với nhau, trí tuệ soi sáng cho từ bi. Thúc đẩy bởi lòng từ bi vô biên, người Bồ tát ngoài phần trí tuệ ra, còn phải tích lũy tất cả những gì đạo hạnh và xứng đáng để mang ra giúp đỡ chúng sinh còn đang sống trong mê lầm, trong khi chính mình đã đạt được giác ngộ.

Bồ đề (bodhi) hay là sự Giác ngộ
 
Giác ngộ là sự hiểu biết trực tiếp, rốt ráo và toàn diện về hiện thực, sau khi đã loại bỏ được mọi dấu vết của vô minh, trong khi đó sự giải thoát (vimoksha) thì lại có nghĩa là hành động để đối đầu với khổ đau và các nguyên nhân gây ra khổ đau. Có ba loại Giác ngộ, tương ứng với ba đường hướng tu tập sau đây : thứ nhất là sự Giác ngộ của một tông đồ tức là một vị A-la-hán hay một hiền nhân đã được giải thoát khỏi cảnh giới ta bà, sẵn sàng hội nhập với niết bàn ; thứ hai là sự Giác ngộ của một vị Phật đơn lẻ (pratyekabuddha) (Bích-chi-ca Phật-đà, còn dịch là Duyên giác Phật hay Độc giác Phật, có nghĩa là tự học mà viên mãn), có nghĩa là tự đạt được Giác ngộ không cần nhờ người khác giảng dạy; thứ ba là sự Giác ngộ toàn vẹn, đó là sự Giác ngộ của một vị Bồ tát khi đã trở thành một vị Phật toàn vẹn (samyaksambuddha) (Chính đẳng chính giác Phật, còn gọi là Tam-miểu Tam Phật-đà) chẳng hạn như Đức Phật Cồ-đàm. Sở dĩ có những sự khác biệt như thế là vì lý do có nhiều con đường tu tập khác nhau: dầu sao thì chỉ có một vị Phật hoàn hảo mới có thể hướng dẫn chúng sinh căn cứ vào kinh nghiệm của chính mình, bởi vì vị ấy đã đạt được mười sự hiểu biết mà các vị Giác ngộ khác không có. Mười sự hiểu biết ấy là : phân biệt được thế nào là đúng và thế nào là sai, biết trước được hậu quả của nghiệp, các nhu cầu của chúng sinh, tánh khí của chúng sinh, khả năng của chúng sinh, các con đường cần phải chọn để noi theo, biết lắng sâu vào thiền định, biết được các kiếp sống trước, biết được từng chúng sinh sẽ chết và tái sinh như thế nào, và sau hết là biết cách xóa bỏ tấm màn u mê che phủ tâm thức. Đối với Đại thừa thì chỉ có sự Giác ngộ toàn vẹn như trên đây mới thật sự có giá trị vì đó là một sự Giác ngộ để tiếp tục kiến tạo sự an vui cho chúng sinh. Nhờ vào trí tuệ sự Giác ngộ đó sẽ đạt được một thể dạng mà Phật giáo gọi là "Thân xác hiện thực" hay dharmakaya (Pháp thân), tượng trưng cho sự hiểu biết mang những kích thước tuyệt đối. Tiếp theo, xuyên qua các hành động vị tha của một người Bồ tát mà thân xác Giác ngộ ấy sẽ hiển hiện để trở thành các "Thân xác biểu lộ" để có thể thuyết giảng: các thân xác ấy gồm có "Thân xác tròn đầy và hoàn hảo" (tiếng Phạn sambhogakaya) (Báo thân hay Thụ dụng thân), hướng vào việc giảng dạy cho các vị đại Bồ tát; và "Thân xác ứng hiện" (nirmanakaya) (Ứng thân, Hóa thân hay Ứng hóa thân) để chăm lo cho sự an vui của các chúng sinh bình thường. Đó là những gì mà người ta gọi chung là Trikaya tức là Ba Thân khác nhau (Tam Thân) của một vị Giác ngộ. Theo quan điểm của Đại thừa thì một vị A-la-hán chỉ tu tập về trí tuệ cho nên dù đã được giải thoát khỏi cảnh giới ta bà nhưng vị ấy vẫn chưa đi hết con đường đưa đến sự Giác ngộ toàn vẹn, có nghĩa là vị ấy mới nhập vào một thể dạng niết-bàn "tĩnh lặng" mà thôi.

Phần đóng khung 1
Sự Thật thiêng liêng về khổ đau

"Này các tỳ kheo, đây là Con Đường Trung Đạo mà Như Lai đã phát hiện được, Con Đường đó tránh xa cả hai thái cực [...] Đó là Con Đường mang lại sự xoa dịu, sự hiểu biết siêu nhiên, sự Giác ngộ toàn vẹn và niết bàn. [...] Đấy là Con Đường thiêng liêng của tám điều đúng đắn : sự hiểu biết đúng, ý định đúng, ngôn từ đúng, hành động đúng, phương tiện sinh sống đúng, cố gắng đúng, chú tâm đúng và tập trung tâm thức đúng. [...]

"Có bốn Sự Thật thiêng liêng : Sự Thật thiêng liêng về khổ đau (duhkha), Sự Thật thiêng liêng về nguồn gốc của khổ đau, Sự Thật thiêng liêng về sự chấm dứt khổ đau, Sự Thật thiêng liêng về con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau.

"Này các tỳ kheo, vậy Sự Thật thiêng liêng về khổ đau là gì? Sinh là khổ đau, già là khổ đau, bịnh tật là khổ đau, chết là khổ đau, bắt buộc phải nhận lảnh những gì mà mình không muốn là khổ đau, xa lìa những gì mình yêu quý là khổ đau, không chiếm hữu được những gì mong mong muốn là khổ đau. Tóm lại năm thứ cấu hợp do sự góp nhặt mà có (tức là ngũ uẩn) là khổ đau. 

"Sự Thật thiêng liêng về nguồn gốc của khổ đau là gì ? Đó là sự thèm khát đưa đến tái sinh, kèm theo là sự bám víu vào các loại thích thú giác cảm hầu mang lại những thỏa mãn nhất thời, và chính đấy cũng là sự thèm khát của dục vọng, sự thèm khát muốn có sự tồn tại, sự thèm khát không muốn có sự tồn tại.

"Sự Thật thiêng liêng về sự chấm dứt khổ đau là gì ? Đấy là sự chấm dứt và tháo gỡ hoàn toàn được mọi sự thèm khát, từ bỏ được chúng, xô bỏ được chúng, tự giải thoát ra khỏi chúng, không bám víu vào chúng nữa.

"Sự Thật thiêng liêng về con đường đưa đến chấm dứt khổ đau là gì ? Đó là Con Đường thiêng liêng của tám sự đúng đắn [...]. 

"Này các tỳ kheo, đấy chính là Sự Thật thiêng liêng về khổ đau, là những gì mà từ trước đến nay chưa có ai thuyết giảng"
Kinh Chuyển Pháp Luân (Vinayapitaka) của Phật giáo Nguyên thủy (ấn bản Thái Lan) phỏng theo bản dịch trong quyển Bouddha của André Bareau, nhà xuất bản Seghers, 1962. 

Phần đóng khung 2
Bốn dấu Ấn

"Này các tỳ kheo, nếu muốn thoát khỏi cái chết thì phải suy tư về bốn căn nguyên của Đạo Pháp.

- Bốn căn nguyên ấy là gì ?

"Tất cả những gì cấu hợp đều vô thường". Đấy là căn nguyên thứ nhất của Đạo Pháp cần phải nghiền ngẫm.

"Tất cả những gì cấu hợp đều là khổ đau". Đấy là căn nguyên thứ hai của Đạo Pháp cần phải nghiền ngẫm.

"Tất cả mọi hiện tượng đều vô ngã". Đấy là căn nguyên thứ ba của Đạo Pháp cần phải nghiền ngẫm.

"Hủy diệt được tất cả [những mối dây trói buộc ấy] chính là niết-bàn". Đấy là căn nguyên thứ tư của Đạo Pháp cần phải nghiền ngẫm "
Trích từ Kinh Ekotattaragamasutra (Tăng Nhất A-hàm kinh) (Taishô II, N°125,31,4), dựa theo bản dịch trong quyển Paroles du Bouddha (Lời Phật dạy) của Jean Eracle, nhà xuất bản Sueil, 1991)

Phần đóng khung 3

"Do sự tạo tác, từ cái này sinh ra cái kia"

"Nếu nhìn vào những lời giảng dạy của Đấng Thế Tôn - vị Thầy Toàn năng của Đạo Pháp - thuyết giảng cho các vị tỳ kheo: " Này các tỳ kheo, những ai nhận thấy được sự tạo tác tương liên sẽ thấy được Đạo Pháp (Dharma). Những ai thấy được Đạo Pháp sẽ nhìn thấy Phật, [ thì sẽ tự hỏi] vậy sự tạo tác tương liên là gì ? 

Thành ngữ "tạo tác tương liên" có có nghĩa là "Cái này có, cái kia sinh ra ; từ sự tạo tác của cái này sẽ sinh ra cái kia". Nói một cách khác, vô minh tạo ra các nhân tố của sự kết hợp; các nhân tố của sự kết hợp tạo ra tri thức ; tri thức tạo ra danh xưng và hình tướng ; danh xưng và hình tướng tạo ra nguồn gốc của giác cảm ; nguồn gốc của giác cảm tạo ra sự tiếp xúc ; sự tiếp xúc tạo ra sự cảm nhận ; sự cảm nhận tạo ra sự thèm khát ; sự thèm khát tạo ra sự chiếm hữu ; sự chiếm hữu tạo ra sự hình thành ; sự hình thành tạo ra sự sinh ; sự sinh tạo ra sự già nua và cái chết, sự buồn khổ, ta thán, đớn đau, sầu muộn và ray rứt. Chính đấy là sự hình thành của cả một khối khổ đau mênh mông"
Trích từ Kinh Cọng lúa (Salistambasutra, Đạo can kinh), trong quyển Kinh Kim cương và các Kinh khác thuộc Trung Đạo (Soutra du Diamant et autres soutras de la voie médiane) do Philipe Cornu dịch, nhà xuất bản Arthème Fayards, 2001 

Phần đóng khung 4
Tâm ý và hậu quả

" Ta nghĩ gì thì ta sẽ trở thành như thế ấy. Tất cả những gì mà ta đang thừa hưởng đều do sự suy nghĩ của ta mà ra. Ta tạo dựng ra thế giới này bằng tâm ý của chính ta. Nói năng hay hành động với tâm ý xấu thì khổ đau sẽ theo ta như chiếc bánh xe lăn theo bước chân của con bò. 

Ta nghĩ gì thì ta sẽ trở thành như thế. Tất cả những gì mà ta đang thừa hưởng đều do sự suy nghĩ của ta mà ra. Ta tạo dựng ra thế giới này bằng tâm ý của ta. Nói năng và hành động với tâm ý nhân từ thì hạnh phúc sẽ theo ta như hình với bóng.

"Nó lăng nhục tôi, nó đánh đập tôi, nó khống chế tôi, nó cướp của tôi", nếu ta cứ nuôi nấng những ý nghĩ như thế, ta sẽ sống trong hận thù.

"Nó lăng nhục tôi, nó đánh đập tôi, nó khống chế tôi, nó cướp của tôi", hãy bỏ đi những tâm ý ấy thì hận thù sẽ lắng xuống.

"Thật vậy, trong thế giới này không khi nào hận thù có thể làm cho hận thù lắng xuống, chỉ có tình thương mới làm được việc ấy. Đấy là quy luật của muôn đời."
Dhammapada (Pháp cú Kinh) I, "Song yếu" 1-5, theo bản dịch của Rigpa và Philippe Cornu.

Phần đóng khung 5
Bí mật của Thiền định

Thiền định giữ một vai trò căn bản trong việc tu tập Phật giáo : đó là cách thức mang lại sự bình thản giúp cho ta tìm hiểu những động cơ nào đã chi phối mình từ nơi sâu kín nhất của chính mình. Chính Đức Phật đã thiết đặt ra các kỹ thuật về Thiền định.

"Này các tỳ kheo, chỉ có một con đường duy nhất mang lại sự tinh khiết toàn vẹn cho chúng sinh, giúp chúng sinh chiến thắng mọi buồn phiền và ta thán, hủy diệt được khổ đau và sầu muộn để bước vào con đường đúng đắn và đạt được Niết-bàn : đấy là bốn phương pháp chú tâm. Bốn phương pháp ấy là gì ?

"Này các tỳ kheo, nếu một người tu hành biết xem thân xác như là một thân xác để tự cảnh giác mình, hoàn toàn ý thức và chú tâm, thì người ấy sẽ gạt bỏ được khỏi thế giới này mọi thèm khát và lo toan thế tục ; nếu người ấy biết xem các giác cảm là các giác cảm để tự cảnh giác mình, hoàn toàn ý thức và chú tâm, thì người ấy sẽ gạt bỏ được khỏi thế giới này mọi thèm khát và lo toan thế tục ; nếu người ấy biết xem tâm thức là tâm thức thì người ấy sẽ gạt bỏ được khỏi thế giới này mọi thèm khát và lo toan thế tục ; nếu người ấy biết xem một đối tượng tâm thần là một đối tượng tâm thần để tự cảnh giác mình, hoàn toàn ý thức và chú tâm, thì người ấy sẽ gạt bỏ được khỏi thế giới này mọi thèm khát và lo toan thế tục" 

Đấy là những lời phát biểu nổi tiếng của Đức Phật trong kinh Tứ niệm xứ (Sathipatthanasutta thuộc Trung bộ kinh, Majjhima Nikaya, X) để giải thích về nguyên tắc Thiền định của Phật giáo, Thiền định tiếng Phạn là Bhavana, có nghĩa là "Sự rèn luyện tâm thức". Thiền định theo như Đức Phật thuyết giảng trên đây thì tuyệt nhiên không có gì liên hệ đến sự nghiền ngẫm mang tính cách trí thức. Đó là những kinh nghiệm trực tiếp mà người hành thiền cảm nhận được khi tiếp xúc thật sâu kín với chính tâm thức mình. Đức Phật xác định đấy là cách rèn luyện bao gồm cả ba phép tu : là tu giới, tu định (như vừa được trình bày trên dây) và tu tuệ.

Tu giới (tiếng Phạn là Shila) có nghĩa là tuân thủ các giới luật và phải ý thức được từng hành động của chính mình. Giữ giới tạo ra nền móng cần thiết giúp cho việc thiền định. Sau đó là nhập định (samadhi), là điều kiện tiên quyết giúp cho tâm thức loại bỏ được mọi xúc cảm và giữ được một tư thế đúng đắn. Người hành thiền không hướng ra bên ngoài mà phải hướng vào chính nội tâm của mình để tìm hiểu các nguyên nhân gây ra khổ đau cho mình. Tuy nhiên đấy không phải là một phương pháp nội quan (nhìn vào bên trong), để tự xem mình là trung tâm của vũ trụ mà là một phương pháp giúp cho chúng ta hiểu được rằng mọi hành vi từ thân xác cho đến ngôn từ đều lệ thuộc vào tâm thức của chính mình, và nếu để cho sơ hở thiếu chú tâm không kiểm soát được tâm thức mình thì ta cũng sẽ không thể nào chủ động được chính mình. Vì thế mà cần phải bổ sung vào đó hai phương pháp phụ thuộc nữa: phương pháp thứ nhất - bắt buộc phải thực hiện cho bằng được - đó là cách làm cho tâm thức lắng xuống và giữ được sự thăng bằng. Phương pháp này gọi là shamatha (tiếng pali là samatha), có nghĩa là "tự tạo ra cho mình một sự an bình". Người hành thiền chọn một tư thế ngồi (hai chân tréo vào nhau, lưng thật thẳng, hai vai mở rộng ra, mắt nửa khép nửa mở, nhìn ra phía trước và hơi hướng xuống phía dưới, lưỡi dán lên vòm miệng) và thở thật tự nhiên. Người hành thiền dồn tất cả sức chú tâm vào một vật thể đơn giản - chẳng hạn như một cánh hoa, một viên sỏi, một chữ cái nào đó, v.v... - hoặc chỉ cần theo dõi những động tác hít thở. Dần dần sau đó tâm thức sẽ tự nhiên bớt bay nhảy và trụ vào một đối tượng, lúc ấy người hành thiền sẽ cảm thấy thư giãn, tập trung dễ dàng hơn và ít bị tản mạn hơn. Đấy là bước khởi đầu đưa đến thể dạng nhập định (samadhi), trong thể dạng nhập định thì dù tư duy vẫn còn tiếp tục hiển hiện nhưng chúng sẽ không làm cho người hành thiền bị dao động. Giai đoạn luyện tập tiên khởi như vừa kể trên đây cũng giống như các phương pháp thiền định thường thấy trong Ấn giáo.

Giai đoạn luyện tập thứ hai mới thật sự là những gì đặc thù của Phật giáo, và được gọi là vipashyana (tiếng Pali là vipassana) : có nghĩa là sự quán thấy thông suốt. Người hành thiền thay vì tự buông thả để rơi vào một thể dạng trầm tư càng lúc càng lâng lâng và mê man (buồn ngủ và tê liệt), thì phải dựa vào thể dạng trầm lặng và thăng bằng của tâm trí để chú tâm quán xét thật cẩn thận tất cả mọi hiện tượng đang hiện ra với mình : chẳng như chú tâm vào thân xác, giác cảm, tư duy, xúc cảm và các hình ảnh tâm thần. Người hành thiền không nghiền ngẫm những chuyện trong quá khứ nữa, cũng không phóng nhìn vào tương lai, mà phải an trú trong hiện tại, làm được như thế thì sẽ cảm nhận được bản chất đích thực của mọi vật thể, vượt khỏi những biểu hiện bên ngoài của chúng, sự quán thấy đó sẽ giúp cho người hành thiền bước vào giai đoạn thứ ba của việc tu tập gọi là prajna hay trí tuệ.

Có thể phát triển trí tuệ nhờ nghe thuyết giảng giáo lý, nhờ suy tư hoặc thiền định. Dầu sao thì nếu chỉ thiền định suông mà không học hỏi thêm thì sẽ có thể bị rơi vào chỗ bế tắc tâm thần, hoặc tình trạng lơi là và buồn ngủ, giống như động vật ngủ vùi trong mùa đông ! Dầu sao thì Phật giáo cũng luôn nhắc nhở phải hội nhập thiền định vào cuộc sống hằng ngày. Người hành thiền phải cố gắng trong cuộc sống thường nhật lúc nào cũng duy trì được sự chú tâm và cảnh giác đã đạt được trong những lúc ngồi thiền. (Philipe Cornu).
 
 

Vài lời ghi chú của người dịch

Người đọc cũng có thể ngạc nhiên ít nhiều khi nhận thấy bài viết của ông Philippe Cornu không đề cập đến một khái niệm thật quan trọng của Phật giáo là "Tánh không của mọi hiện tượng". Thật vậy đây là khái niệm thật then chốt của Phật giáo đã làm cho các học giả và triết gia Tây phương kể cả các khoa học gia, phải sửng sốt và khâm phục. Tất cả mọi vật thể và biến cố đều sờ sờ trước mặt, nhưng Đức Phật lại bảo là không, chẳng có gì thật cả, đấy chỉ là những ảo giác. Quan điểm táo bạo đó của triết lý Phật giáo đã làm lung lay cả nền tư tưởng lâu đời của Tây phương ảnh hưởng từ nền triết học cổ đại Hy lạp và các nền tín ngưỡng độc thần của Trung đông. Vì thế chúng ta cũng có thể tự hỏi vì lý do nào mà học giả Philippe Cornu lại không nêu lên khái niệm này trong bài biết của ông ? Có thể có hai lý do sau đây :

Lý do thứ nhất là bài báo thuộc khuôn khổ của một tạp chí đại chúng, nên một khái niệm gay go như thế không thích hợp cho số đông người đọc chưa có căn bản vững chắc về Phật giáo. Thật vậy khái niệm về Tánh không của mọi hiện tượng không phải dễ để có thể nắm bắt được. Người ta có thể hiểu được một cách tương đối Tánh không trong vũ trụ này là gì bằng cách học hỏi, lý luận và suy tư. Tuy nhiên Phật giáo chủ trương sự hiểu biết đó phải là một sự hiểu biết tự nhiên, trực tiếp và phi lý luận thì mới có thể mang lại ích lợi thật sự cho việc tu tập. Tóm lại có thể gọi thể dạng quán nhận trực tiếp ấy là cấp bậc thứ hai của sự hiểu biết về Tánh không, và cấp bậc ấy chỉ có thể đạt được nhờ vào thiền định và bằng những kinh nghiệm trực tiếp của trực giác mà thôi. Thiết nghĩ một học giả thuộc tầm cỡ như ông Philippe Cornu lại không nghĩ đến một khái niệm then chốt như thế để đưa vào bài viết của ông hay sao ? Như đã được trình bày trên đây, có thể là vì lý do khái niệm về Tánh không của mọi hiện tượng không thích nghi trong khuôn khổ tổng quát của bài báo.

Lý do thứ hai là khái niệm về Tánh không nghiêng nhiều về sự tu tập tức là thực hành. Ngay cả một số người đã có ít nhiều căn bản về Phật giáo đôi khi cũng hiểu sai về khái niệm này. Tánh không của mọi hiện tượng không phải là một lý tưởng hay một chân lý mà người tu tập bắt buộc phải hướng nhìn vào đấy để chiêm ngưỡng hay ngưỡng mộ. Tánh không chỉ là một đặc tính chung của tất cả mọi hiện tượng chỉ định tính cách "không thật" của mọi hiện tượng mà thôi. Tại sao Phật giáo xem mọi hiện tượng là không thật mà chỉ là những ảo giác ? Một cách đơn giản và ngắn gọn là tất cả mọi hiện tượng đều do sự kết hợp của nhiều điều kiện mà sinh ra, tự nó thì nó không có. Đấy chỉ là những hiện tượng lệ thuộc vào điều kiện, nếu thiếu một điều kiện nào đó thì hiện tượng sẽ biến mất hay đổi thay, sự hiện hữu của nó mang tính cách trói buộc, tương liên và tương kết với các hiện tượng khác, vì thế sự hiện hữu đó không hàm chứa một đặc tính tự tại nào cả. Nói chung có thể xem tất cả những đặc tính ấy tùy thuộc vào một quy luật chung chi phối tất cả mọi hiện tượng trong vũ trụ này. Tuy nhiên cũng nên hiểu rằng Phật giáo không phải là một tín ngưỡng mang tính cách lý thuyết suông. Tánh không của mọi hiện tượng mà Đức Phật đưa ra không phải để cho trí thông minh của con người dùng làm đối tượng để nhào nặn, mà là một phương tiện giúp cho con người tu tập. Khi đã nhìn thấy mọi sự vật và kể cả thân xác con người đều "không thật" thì ta sẽ không bám víu vào những thứ ấy, không giang tay ra để ôm chúng vào lòng. Nếu nhìn thấy những lâu đài vàng son của vật chất và danh vọng chỉ là những chiếc bóng hay "ảo giác" thì ta sẽ không nghiêng người để tựa vào đấy, không đưa vai đề vác chúng lên lưng. Có thể ông Philippe Cornu nghĩ rằng sự thực tiễn của khái niệm về Tánh không sẽ không phù hợp lắm (?) với một bài báo ngắn nghiêng ít nhiều về lý thuyết tổng quát của Phật giáo.

Ngoài ra cũng cần hiểu thêm là Giáo lý Phât giáo còn hàm chứa nhiều khái niệm khác nữa, chẳng hạn như khái niệm về hai sự thật : sự thật tương đối và sự thật tuyệt đối, v.v..., tuy nhiên cũng không tiện để kể ra hết trong khuôn khổ của vài lời ghi chú này. Trộm nghĩ nêu lên vấn đề trên đây chỉ đơn giản có mục đích nhắc nhở một số người đọc nên nhìn xa hơn bài báo để hầu có thể khám phá ra Con Đường Đạo Pháp thật bao la mà Đức Phật đã để lại cho chúng ta hôm nay.

NHỮNG LỜI CUỐI CÙNG CỦA PHẬT

blankDưới đây là tóm tắt những lời dặn dò cuối cùng của Phật. Thật ra Phật đã đau yếu từ ba tháng trước và đã khởi sự dặn dò người đệ tử thân cận nhất là A-nan-đà. Phật bảo A-Nan-Đà tập họp các đệ tử để nghe giảng và thông báo trước sự tịch diệt của mình. Lúc ấy Phật đã 80 tuổi. Trong những tháng cuối cùng, Phật đã gầy còm và mệt mỏi, nhưng vẫn đi thuyết giảng như thường, tuy không còn đi xa được nữa. A-Nan-Đà xin Phật hãy tĩnh dưỡng trong những ngày còn lại, nhưng Ngài khoát đi và dạy rằng : 

« Thân ta tuy có kém mạnh khoẻ, nhưng lòng từ bi của ta, trí sáng suốt của ta không kém sút. Ta còn tại thế ngày nào thì ngày ấy không phải là một ngày vô ích ». 

Trong một khu rừng cạnh thị trấn Câu-thi-na (Kusinaga, còn viết là Kuçinagara), ngày nay là một thị trấn nhỏ tên là Kasia, cách 50 cây số về phía đông tỉnh Gorakhpur, và cách 150 kilomét về phía bắc-đông-bắc Varanasi (Bénarès), Phật nằm nghỉ giữa hai gốc cây sa-la. Ngài tự gấp áo cà sa làm bốn, rồi nằm nghiêng về phía tay phải, đầu hướng về phía bắc, mặt hướng về phía tây, hai chân duỗi thẳng, chân này gác lên chân kia. Sau đó Phật ngỏ những lời cuối cùng với các đệ tử để nhắc lại một lần nữa tầm quan trọng của Đạo Pháp. Phật nhắc nhở các đệ tử phải hiểu rằng vị thầy của họ không phải là một nhân vật nào cả, dù đó là Phật, vị thầy đích thực của họ chính là Đạo Pháp. Phật cất tiếng và nhắn nhủ các đệ tử đang ngồi chung quanh Ngài như thế này : 

« Này các đồ đệ, các con hãy tự làm đuốc để soi sáng cho các con, hãy trông cậy vào chính sức mạnh của các con; không nên lệ thuộc vào bất cứ ai. Những lời giảng huấn của ta sẽ làm ngọn đuốc dẫn đường cho các con, làm nơi nương tựa cho các con; không cần phải lệ thuộc thêm vào những lời giảng huấn nào khác nữa. 

« Hãy nhìn vào thân xác các con, các con sẽ thấy cái thân xác đó ô uế biết chừng nào. Khi các con hiểu được rằng lạc thú lẫn đớn đau của thân xác cũng chỉ là cội nguồn chung của khổ đau, khi hiểu được như thế, các con sẽ không thể nào tự buông lỏng cho dục vọng chi phối các con. 

« Hãy nhìn vào tâm thức các con, các con sẽ thấy cái tâm thức đó biến dạng không ngừng. Vì thế các con sẽ không thể nào tự buông rơi vào chính những ảo giác của tâm thức, để rồi tự duy trì những kiêu căng và ích kỷ do tâm thức tạo ra, nhất là khi các con đã hiểu rằng những xúc cảm đó nhất định chỉ mang đến khổ đau mà thôi. 

« Hãy nhìn vào tất cả các vật thể chung quanh xem có vật thể nào trường tồn hay chăng? Có vật thể nào không phải là những cấu hợp sinh ra hay không? Tất cả sẽ gãy nát, tan rã và phân tán. Các con chớ sợ hãi khi nhận thấy khổ đau cùng khắp mọi nơi, hãy noi theo những lời giáo huấn của ta, kể cả sau khi ta đã tịch diệt. Như thế các con sẽ loại bỏ được khổ đau. Thật vậy, cứ noi theo những lời giáo huấn của ta, rồi nhất định các con sẽ trở thành những đồ đệ thật sự của ta. 

« Này các đồ đệ của ta, những lời giáo huấn ta giảng cho các con, các con đừng bao giờ quên, đừng bao giờ để cho mai một đi. Phải bảo tồn những lời giáo huấn ấy, đem ra nghiên cứu và thực hành. Nếu theo đúng những lời giáo huấn ấy, các con sẽ đạt được an vui. 

« Những gì hệ trọng nhất trong những lời giáo huấn của ta là các con phải kiểm soát được tâm thức các con. Hãy gạt bỏ mọi thèm muốn và giữ cho thân xác đứng thẳng, tâm thức tinh khiết và ngôn từ chân thật. Nếu các con biết tự nhắc nhở là cuộc sống của các con chỉ là tạm bợ, các con sẽ đủ khả năng loại bỏ mọi thèm khát và hung dữ đưa đến khổ đau. 

« Nếu các con nhận ra được là tâm thức các con đang có xu hướng bám níu hay vướng mắc vào ham muốn, các con phải gạt bỏ ngay sự ham muốn và chận đứng sự cám dỗ đó. Các con phải làm chủ được tâm thức các con.

Tâm thức có khả năng biến một con người thành một vị Phật hay một con thú. Khi rơi vào sự lầm lẫn, ta có thể trở thành quỷ sứ, nhưng khi Giác ngộ ta sẽ thành Phật. Vì thế, các con phải kiểm soát lấy tâm thức các con và không đi lạc ra ngoài Chánh Đạo. 

« Để có thể giữ đúng như lời giáo huấn của ta, các con hãy kính trọng lẫn nhau và đừng cãi vã. Đừng bắt chước như nước với dầu xô đẩy lẫn nhau; hãy bắt chước như nước với sữa, có thể hoàn toàn hòa lẫn vào nhau.

Hãy cùng nghiên cứu với nhau, cùng giảng giải cho nhau, thực hành với nhau. Không nên phí phạm tâm thức của các con và thời giờ của các con trong sự cãi vả hay lười biếng. Hãy hân hoan đón nhận hoa thơm của Giác ngộ vào lúc ra hoa và hái lấy quả ngọt trên Đường Ngay Thật. 

« Những lời giáo huấn ta ban cho các con là do nơi kinh nghiệm của chính ta, và chính ta đã noi theo con đường đó. Các con nên tuân theo những lời giáo huấn ấy và giữ đúng như thế dù phải gặp hoàn cảnh khó khăn nào. Nếu các con xao lãng, có nghĩa là các con chưa hề gặp được ta, các con thật sự còn đang ở một nơi nào đó thật xa, dù cho trong lúc này đây các con đang ngồi bên cạnh ta cũng vậy. Nhưng nếu ngược lại, các con chấp nhận và đem ra thực hành những lời giáo huấn của ta, thì dù cho các con ở thật xa trong một chốn tận cùng của thế giới, nhưng cũng giống như các con đang ở bên cạnh ta trong lúc này. 

« Hỡi các đồ đệ, phút cuối cùng của ta đã gần kề, phút xa lìa giữa ta và các con không còn bao lâu nữa. Tuy nhiên các con không nên than khóc. Sự sống là một sự đổi thay không ngừng và không có gì cản trở được sự tan rã của xác thân. Cái sự thực đó, ta đang chứng minh cho các con thấy ngay trên thân xác của ta, thân xác ta sẽ tan rã như một cỗ xe hư nát. Đừng than khóc một cách vô ích, trái lại các con phải hân hoan khi nhận ra được cái quy luật biến đổi ấy và hiểu được rằng sự sống của con người chỉ là trống không mà thôi. Đừng cố gắng duy trì cái khát vọng phi lý, mong muốn những gì tạm bợ phải nhất định trở thành trường tồn. 

« Con quỷ của những dục vọng thế tục luôn luôn tìm cách đánh lừa tâm thức các con. Nếu có một con rắn độc trong phòng, các con sẽ không thể nào ngủ yên nếu chưa đuổi được nó ra ngoài. Các con phải cắt đứt những mối giây ràng buộc của thèm khát thế tục và rứt bỏ những mối giây đó như các con đã đuổi bỏ con rắn độc ra khỏi phòng. Các con phải bảo vệ thật cẩn thận tâm thức các con. 

« Này các môn đệ của ta, giây phút cuối cùng của ta đã đến, tuy vậy các con phải hiểu rằng cái chết chỉ là sự tan rã của xác thân vật chất mà thôi. Thân xác được cha mẹ sinh ra, nó lớn lên nhờ thức ăn, nó không có cách gì tránh khỏi bịnh tật và cái chết. Một vị Phật đích thực không mang thân xác con người, mà vỏn vẹn chỉ là sự Giác ngộ. Chỉ có sự Giác Ngộ mà thôi. Thân xác con người phải tiêu tan, nhưng Trí tuệ của Giác ngộ sẽ trường tồn vô tận trong thực thể của Đạo Pháp, trên con đường tu tập Đạo Pháp. Nếu có ai chỉ thấy thân xác ta thì kẻ ấy không thấy ta một cách thật sự. Chỉ có người nào chấp nhận những lời giáo huấn của ta mới thật sự nhìn thấy ta. 

« Sau khi ta tịch diệt, Đạo Pháp thay ta làm vị thầy cho các con. Biết noi theo Đạo Pháp, ấy chính là cách các con tỏ lòng trung thành với ta. Trong bốn mươi lăm năm sau cùng trong cuộc đời của ta, ta không hề dấu diếm điều gì trong những lời giáo huấn. Chẳng có một lời giáo huấn nào bí mật, không có một lời nào mang ẩn ý. Tất cả những lời giảng của ta đều được đưa ra một cách ngay thật và minh bạch. 

« Này các con yêu quý của ta, đây là giây phút chấm dứt. Trong một khoảnh khắc nữa ta sẽ nhập vào Niết bàn. Những lời này là những lời dặn dò cuối cùng của ta cho các con ». 

Người chép lại những lời này của Phật xin chắp tay mong rằng :

- Vì Phật, chúng ta hãy đọc lại những lời nhắn nhủ trên đây thêm một lần.

- Vì tất cả chúng sinh, vì sự đau khổ của muôn loài, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa.

- Để gởi đến từng đơn vị nhỏ nhoi nhất của sự sống, chúng ta lại đọc thêm một lần nữa, đọc thêm một lần nữa…

Chúng ta nguyện sẽ đọc lên và đọc lên cho từng chúng sinh một, ta đọc cho đến khi nào những lời dặn dò trên đây của Phật trở thành những lời dặn dò xuất phát từ chính tâm thức ta, để nhắn nhủ cho chính ta, nhắn nhủ những người chung quanh ta, kể cả những sinh linh nhỏ nhoi nhất của sự sống. Khi những lời nhắn nhủ chân thật và tràn đầy Từ bi trên đây của Phật trở thành làn hơi thở của của chính ta, thì biết đâu lúc ấy ta cũng sẽ là một vị Phật ? 

THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN

Lời giới thiệu của người dịch: 
Thập nhị nhân duyên là một chủ đề quen thuộc, thường được đề cập và bình giải trong nhiều sách, bài viết cũng như băng đĩa. Tuy nhiên chúng ta cũng thử tim hiểu xem Phật giáo Tây phương tiếp cận và giải thích khái niệm này như thế nào. 

Có thể người đọc cũng sẽ ngạc nhiên đôi chút trên phương diện thuật ngữ, lý do là các học giả Tây phương nói chung không nhất thiết dựa vào kính sách bằng Hán ngữ để bình giải và thông thường thì ngoài những tư liệu bằng tiếng Hán các tác giả Tây phương còn căn cứ vào các kinh sách bằng tiếng Phạn và tiếng Pali. Hơn nữa các học giả Tây phương lại được thừa hưởng một gia tài văn hóa lâu đời về triết học cũng như những hiểu biết cận đại về khoa học, do đó kinh sách dịch thuật của họ khá cởi mở, minh bạch và chính xác, Trong khi đó kinh sách tiếng Việt lại chịu ảnh hưởng quá nặng nề từ kinh sách Trung hoa đã được dịch thuật từ nhiều trăm năm cho đến hàng ngàn năm trước. 

Thập nhị nhân duyên trong kinh sách bằng ngôn ngữ Tây phương được dịch là Mười hai mối dây tương liên hay Mười hai mối dây lệ thuộc hoặc trói buộc. Gốc tiếng Phạn của Thập nhị nhân duyên là Dvadasanga pratityasamutpada hay còn gọi là Dvadasa nidana, nguyên nghĩa của các cụm từ này là mười hai mối dây tương tác, tương tạo hay tương liên. Riêng chữ pratityasamutpada còn có nghĩa là sự tạo tác lệ thuộc hay sự tạo tác do điều kiện mà có.  Người Tây phương dịch chữ pratityasamutpada là interdependance, thật hết sức đơn giản và chính xác, còn kinh sách gốc Hán thì dịch chữ này là Lý duyên khởi. 

Thí dụ trên đây cho thấy một số khác biệt về thuật ngữ giữa kinh sách Tây phương và kinh sách gốc Hán. Thật vậy, ngôn ngữ dùng để chuyển tải Đạo Pháp rất quan trọng. Nếu một ngôn ngữ có cấu trúc ngữ pháp minh bạch, có khả năng thích ứng với khoa học và triết học hiện đại thì sẽ có nhiều hy vọng mang Đạo Pháp đến gần với con người trong các xã hội ngày nay hơn.

Mặt khác, trên phương diện nội dung thì khái niệm về Thập nhị nhân duyên là một khái niệm khá khó để nắm bắt và thấu triệt, vì khái niệm này bao hàm khá nhiều hiện tượng liên quan đến cả hai thế giới vừa vật-chất và phi-vật-chất, liên đới với sự hiện hữu của con người cả trên phương diện thể xác lẫn tâm thần. Sự tổng kết hay tổng hợp ấy lại dựa vào thật nhiều quy luật khác nhau như nguyên nhân hậu quả, sự tương liên (pratityasamutpada - lý duyên khởi), sự tái sinh, hiện tượng vô thường, v.v... Thật ra thì mọi hiện tượng trong vũ trụ đều tùy theo cơ duyên mà biến động không ngừng, không nhất thiết phải theo chiều dọc hay chiều ngang. Tuy nhiên Đức Phật đã chọn ra mười hai biến động trực tiếp nối kết nhau thành một vòng tròn để chỉ cho chúng ta nhìn thấy một cách cụ thể, trực tiếp và đơn giản về cách thức hiện hữu của chính chúng ta trong thế gian này. Mười hai chiếc khoen của sợi dây xích đó đang tác động để buộc chặt sự hiện hữu của chúng ta và kìm giữ chúng ta bất tận trong cõi ta bà.

Chu kỳ liên kết mười hai hiện tượng thường được cụ thể hóa bằng một bánh xe vẽ trên một tấm tranh gọi là Thăng-ka (thanka). Bánh xe đó mang tên là Bánh xe của sự hiện hữu hay Bánh xe luân hồi. Hình vẽ trên trên tấm Thăng-ka rất phức tạp vì bao hàm thật nhiều chi tiết. Ngoài tính cách thiêng liêng biểu hiện cho Đạo Pháp, tấm Thăng-ka còn có mục đích giúp người Phật tử nhìn vào đó để tìm hiểu và học hỏi về Phật pháp mà không cần phải biết đọc, chỉ cần nghe giảng một lần là hiểu, nếu không nhớ hết thì nhìn vào những biểu tượng của tấm Thăng-ka sẽ nhớ lại ngay. Nếu có nhiều thì giờ thì có thể ngồi xem để chú tâm vào đấy mà chiêm nghiệm từng chi tiết một.

Phần thuyết giảng dưới đây là một bài lược dịch từ hai buổi phát sóng trên đài truyền hình France 2 của nước Pháp, thuộc chương trình hàng tuần về Phật giáo do Tổng hội Phật giáo Pháp phụ trách. Hai buổi phát sóng được tổ chức vào hai ngày chủ nhật 5 và 12 tháng 8, năm 2007. Người thuyết giảng là ông Pierre Arène, một khảo cứu gia chuyên ngành về Phật giáo thuộc Trung Tâm Quốc gia Khảo cứu Khoa học của Pháp (Centre National de la Recherche Scientifique - gọi tắt là CNRS), Ông đồng thời cũng vừa là khảo cứu gia và là thành viên ban giảng huấn của trường Collège de France, một cơ quan giáo dục và khảo cứu hàng đầu của nước Pháp, quy tụ các học giả, triết gia và khoa học gia lỗi lạc nhất trong nước. Hơn thế nữa ông còn giữ chức chủ tịch Ủy ban Nghiên cứu Phật Pháp của hệ thống tu viện do đại sư Tây tạng là Dagpo Rimpoché thiết lập tại Pháp và Âu châu. Vì thế thiết nghĩ những gì do ông thuyết giảng dưới đây là kết quả nghiên cứu rất khoa học và nghiêm chỉnh. (Hoang Phong) 

hoangphong-thapnhinhanduyen-01
Cô Aurélie Godefroy
hoangphong-thapnhinhanduyen-02
Ông Pierre Arène
Buổi phát sóng ngày 5 tháng 8 năm 2007

Cô Aurélie Godefroy : Hôm nay chúng ta sẽ trình bày về chủ đề « Mười hai mối dây tương liên », đó là những gì sẽ chi phối số phận của chúng ta trong kiếp sau. Mười hai mối dây tương liên là một trong những khái niệm đặc thù và quan trọng trong giáo lý nhà Phật, tuy nhiên muốn tìm hiểu thấu đáo và nắm vững sự liên tục của mười hai mối dây không phải là dễ. Vì lý do đó mà chúng tôi quyết định dành ra hai buổi phát sóng cho chủ đề này. Vai trò của mười hai mối dây tương liên là gì? Khái niệm đó muốn nói lên điều gì? Tại sao sự hiểu biết thấu đáo về mười hai mối dây tương liên lại có thể giúp ta tự giải thoát khỏi khổ đau? Ông Pierre Arène được mời đến nói chuyện hôm nay sẽ giải đáp cho chúng ta những thắc mắc vừa được nêu lên.

Xin chào ông Pierre Arène. Ông là khảo cứu gia thuộc Trung Tâm Quốc gia Khoa Học Pháp (CRNS), chuyên ngành về Phật Pháp, đồng thời ông cũng là khảo cứu gia của trường Collège de France, và hiện ông cũng giữ chức Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu của Trung tâm Phật giáo Tây tạng Dagpo Rimpoché. Để khởi đầu cho buổi phát sóng hôm nay, chúng tôi xin ông vui lòng giải thích cho chúng tôi các thuật ngữ liên quan đến mười hai mối dây tương liên dùng để giải thích về chuỗi liên kết chính và các chuỗi liên kết phụ thuộc, cũng như toàn thể chu kỳ luân hồi (trong phần thảo luận dưới đây không thấy giải thích chi tiết về các chuỗi liên kết phụ, có lẽ vì thời gian trình bày có giới hạn?).

Ông Pierre Arène: Đối với chuỗi dài liên kết chính thì hiện tượng tương liên kết nối mười hai mối dây với nhau tương đối cũng dễ hiểu, mỗi mối dây đều phải lệ thuộc vào một mối dây khác xảy ra trước đó, và phần nó thì sẽ làm phát sinh ra mối dây tiếp theo sau. Hiện tượng nối kết như thế cũng xảy ra trong các chuỗi liên kết phụ thuộc, và riêng các chuỗi liên kết phụ thuộc thì cũng tương kết với nhau thật chặt chẽ. Đối với bánh xe luân hồi hay còn gọi là chu kỳ hiện hữu thì có đôi chút khác biệt, mười hai mối dây tương liên biểu thị cho một sự vận hành toàn diện đưa đến sự tái sinh trong cõi ta bà. Và ý nghĩa của ta bà là quay trở lại với sự sống này ngoài ý muốn của ta, hết kiếp này đến kiếp khác, tiếp tục như thế và sẽ còn tiếp tục như thế. Sức mạnh của nghiệp và các yếu tố bấn loạn là các động cơ thúc đẩy sự tái sinh đó.

Cô A.G.: Có đúng đấy là những gì được trình bày trong tấm tranh gọi là bánh xe hiện hữu hay không?

Bánh xe hiện hữu còn gọi là bánh xe luân hồi.

[Thật ra sơ đồ trên đây rất phức tạp và phong phú về ý nghĩa, gần như là một quyển kinh thu gọn, nếu muốn giải thích đầy đủ phải cần thật nhiều thì giờ]

Ông P. Arène: Bánh xe hiện hữu hay luân hồi được chia thành sáu khu vực phân bố chung quanh một trung tâm, đại khái giống như hình ảnh một cái cối xay. Sáu khu vực tượng trưng cho sáu thể dạng hiện hữu: đó là cõi thiên, cõi bán-thiên hay thánh nhân - tùy theo sách dịch -, cõi người, cõi súc sinh, cõi ngạ quỷ và cõi địa ngục. Trục của bánh xe tượng trưng cho hình ảnh quay tròn của sự hiện hữu, khu vực của trục thường được biểu thị bởi ba con vật là: con heo, con rắn và con gà trống.

Cô A.G.: Ba con vật ấy là biểu tượng của ba thứ nọc độc (tam độc: tham, sân, si) có đúng thế không, thưa ông?

Ông P. Arène: Đúng, đấy là ba thứ nọc độc. Nhưng tại sao lại gọi là nọc độc? Bởi vì chúng sẽ mang lại những hậu quả tiêu cực. Con heo tượng trưng cho vô minh và vô minh là nguyên nhân tạo ra thù ghét và bám víu, thù ghét và bám víu thì được tượng trưng bởi con rắn và con gà (trên biểu đồ, ba con vật cắn đuôi nhau và quay tròn). Vô minh cũng là nguyên nhân tiên khởi làm phát sinh ra toàn bộ mười hai mối dây tương liên. Chính vì vô minh mà chúng ta phải tái sinh vào cõi ta bà, dầu cho tái sinh trong một hoàn cảnh tốt đẹp hay tệ hại cũng vậy.

Cô A.G.: Xin ông vui lòng giải thích toàn bộ mười hai mối dây tương liên trước khi phân tích chi tiết từng mối dây một.

Ông P. Arène: Nếu thế thì phải bắt đầu từ phần bên trên của bánh xe: phần này tượng trưng cho vô minh (mối dây 1: vô minh, avidya). Kế đó là nghiệp khai mào hay là nghiệp phát khởi - tùy theo cách dịch từ tiếng Phạn hay tiếng Tây tạng (mối dây 2: hành, tức là sự tạo nghiệp, samskara). Tiếp theo đó là tri thức (mối dây 3: thức, vijnana), tri thức lại làm phát sinh ra mối dây kế tiếp gọi là danh xưng và hình tướng (mối dây 4: danh sắc, namarupa). Tiếp theo là sáu cơ sở hay sáu lãnh vực hiểu biết (mối dây 5: lục căn, tức các khả năng giác cảm, ayatana), sáu lãnh vực hiểu biết tạo ra sự tiếp xúc (mối dây 6: xúc, sparsa), tiếp xúc tạo ra sự cảm nhận (mối dây 7: thụ, sự cảm biết, vedana), cảm nhận hay cảm biết kéo theo sự thèm khát (mối dây 8: ái, trsna), sự thèm khát sinh ra bám víu (mối dây 9: thủ, chiếm giữ, upadana), bám víu làm phát sinh sự hiện hữu (mối dây 10: hữu, sinh khởi, bhava), và chính sự hiện hữu sẽ đưa đến sự sinh (mối dây 11: sinh, jati), và sau sự sinh thì nhất định phải già và chết (mối dây 12: lão tử), toàn bộ chuỗi dài níu kéo đó gọi là mười hai mối dây tương liên.

Cô A.G.: Đến đây chúng ta trở lại tìm hiểu từng mối dây một và bắt đầu bằng mối dây thứ nhất tượng trưng cho vô minh nguyên thủy. Tại sao lại gọi là nguyên thủy?

Ông P. Arène: Có ít nhất hai lý do để gọi sự vô minh ấy là nguyên thủy. Lý do thứ nhất là nó khơi mào và làm phát sinh ra toàn bộ mười hai mối dây liên kết.

Cô A.G.: Vô minh được tượng trưng như thế nào trên bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Vô minh được tượng trưng bởi một bà già mù lòa chống gậy đang mò mẫm đi. Hình ảnh bà cụ được trình bày trên phần cao nhất của bánh xe.

Cô A.G.: Hình ảnh đó muốn nói lên điều gì?

Ông P. Arène: Sự mù lòa của bà cụ già tượng trưng cho sự u tối, tức là đặc tính của vô minh. Chiếc gậy của bà cụ tượng trưng cho sự cảm nhận sai lầm về hiện thực. Sai lầm, bởi vì cây gậy chỉ giúp cho bà cụ nhận biết được đường đi, nhưng sự nhận biết đó rất giới hạn và phiến diện.

Cô A.G.: Có hai thứ vô minh. Vậy xin ông trình bày chi tiết hơn.

Ông P. Arène: Vô minh thứ nhất gọi là vô minh nguyên nhân, loại vô mình này cũng khá dễ hiểu. Dầu sao thì vô minh nguyên nhân cũng chỉ giữ tầm quan trọng thứ yếu, chỉ cần trình bày sơ lược cũng đủ. Đó là loại vô minh liên quan đến sự kiện không phân biệt được một nguyên nhận nào hay một hành động nào sẽ mang lại hậu quả tốt, cũng không phân biệt được một hành động nào hay một nguyên nhân nào sẽ mang lại một hậu quả xấu. (câu trả lời thật đơn giản nhưng hết sức cao siêu và cô đọng, đây là định nghĩa về nghiệp mà chúng ta thường hiểu và thường được nghe giảng: hành động tốt sinh ra quả tốt, hành động xấu sinh ra quả xấu. Tuy nhiên trên thực tế thì ta hành động nhưng không hề ý thức được hậu quả sẽ phát sinh từ hành động ấy sẽ ra sao, chẳng hạn như những người hung dữ không ý thức được hành động của mình, những người đồ tể vừa làm việc vừa vui đùa hay trong đầu đang nghĩ đến một chuyện khác. Đó là một cách tạo nghiệp tiêu cực mà không biết là minh đang tạo nghiệp tiêu cực) 

Cô A.G.: Còn loại vô minh thứ hai là gì?

Ông P. Arène: Loại vô minh thứ hai rất quan trọng, bởi vì nó giữ vai trò chủ động đưa ta tái sinh trở lại trong cõi ta bà dưới một thể dạng thuận lợi hay bất thuận lợi. Loại vô minh đó gọi là vô minh về sự nhận biết sai lầm về cái tôi, cái ngã, về cái chủ thể gọi là tôi. Có thể kể ra rất nhiều thí dụ trong đời sống hằng ngày. Thí dụ như ta đang đứng trên miệng một hố sâu, hay trên mép mái nhà và ta sợ sẽ bị trượt chân, ta có cảm giác như sắp ngã đến nơi. Hoặc một thí dụ khác, trong một tình huống nào đó ta bị vu khống trước đám đông là đã phạm vào một hành động không tốt. Trong hoàn cảnh đó ta sẽ cảm nhận được một cái tôi thật mạnh (giận dữ), sự cảm nhận đó xâm chiếm toàn bộ tâm thức ta, tất cả mọi suy tư và khả năng cảm nhận của ta đều bị tràn ngập và ta không còn để ý đến bất cứ thứ gì khác nữa, kể cả thân xác và tâm thức của chính mình. Các thí dụ vừa kể cho thấy sự nhận biết sai lầm về cái tôi, sự nhận biết ấy mang tính cách bẩm sinh và sâu kín, thông thường nó chỉ phát hiện trong các tình huống như vừa kể trên. Tuy thế sự nhận biết về cái tôi theo cách đó lại đứng ra điều khiển mọi hành động của chính mình, (đây là loại vô minh dính liền với bản năng. Thí dụ thứ nhất mà ông P. Arène nêu lên liên quan đến bản năng sợ chết khi đứng trên mái nhà và thí dụ thứ hai liên quan đến bản năng tự vệ tức là bảo vệ cái tôi hay cái ngã của mình. Nếu một cá thể sinh ra làm người thì mang bản năng của con người, nếu sinh ra làm súc vật thì mang ban năng của một con thú, đó là những gì liên quan đến vô minh từ kiếp trước tức là vô minh nguyên thủy. Vô minh nguyên thủy bị chi phối bởi bản năng đứng ra điều khiển mọi hành động của ta để tạo nghiệp buộc chặt ta vào thế giới luân hồi).

Cô A.G.: Đúng vậy, chính đó là nguyên nhân làm phát sinh ra mối dây tương liên thứ hai mà người ta gọi là nghiệp khai mào hay là nghiệp phát khởi. Vậy loại nghiệp đó là gì?

Ông P. Arène: Tôi muốn được trình bày thêm những gì đã nêu lên trên đây liên quan đến sự nhận biết sai lầm về cái tôi. Nếu ta xem cái ngã hay cái tôi hiện hữu một cách tuyệt đối thì ta thường có xu hướng gán cho nó một vai trò quá lớn. Ta sẽ rơi vào tình trạng trân quý cái tôi ấy quá đáng, và như thế sẽ có thể làm tổn hại đến người khác. Cái Tôi làm phát sinh ra Kẻ khác, (tức không phải là tôi). Sự cảm nhận ấy sẽ chi phối mọi hành động của ta trong mục đích bảo vệ lấy cái ngã của chính ta, nói một cách khác là ta cố gắng tạo ra những hoàn cảnh ưu thế và thuận lợi nhất cho cái tôi của riêng mình, không cần biết là cách xử thế đó có gây ra thiệt thòi cho người khác hay không.

Cô A.G.: Có nghĩa là các phản ứng đó sẽ phát lộ qua các hành động của chính mình?

Ông P. Arène: Đúng như thế, đấy là cách thúc đẩy ta hành động. Những gì vừa trình bày có lẽ đủ để trả lời cho câu hỏi mà cô vừa nêu lên liên quan đến mối dây tương liên thứ hai, gọi là nghiệp khơi mào hay phát khởi, (có nghĩa là cái tôi bàng bạc và sâu kín trong mỗi cá thể thúc đẩy và chi phối mọi hành động của cá thể ấy để tạo ra nghiệp, và nghiệp đó gọi là nghiệp khơi mào và chúng sẽ phát khởi để đưa đến cái chết và sự tái sinh) .

Cô A.G.: Các loại nghiệp đó được tượng trưng như thế nào trên sơ đồ bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Nghiệp khơi mào hay phát khởi được trình bày tiếp theo sau hình ảnh mù lòa của bà cụ già. Nghiệp phát khởi được tượng trưng bởi một người thợ đồ gốm đang nắn một cái bình trên một bàn quay. Hình ảnh đó tượng trưng cho nghiệp mà chính mình đang uốn nắn để đưa đến sự hiện hữu của chính mình trong tương lai.

Cô A.G.: Vậy nghiệp phát khởi sẽ tạo ra những vết hằn in đậm trong tri thức của ta, và tri thức là mối dây thứ ba trong mười hai mối dây tương liên. Vậy vai trò của tri thức là gì? 

Ông P. Arène: Mối dây thứ ba là kết quả phát sinh từ hai mối dây thứ nhất. Người ta gọi mối dây này là tri thức và tượng trưng nó bằng hình ảnh một con khỉ trên biểu đồ bánh xe luân hồi. Tại sao lại tượng trưng bằng một con khỉ? Bời vì tâm thức ta chưa buông vật này đã nắm bắt vật khác, giống như con khỉ nhảy hết cành này sang cành khác. Cái tri thức lạ lùng đó thật sự là cái gì? Chẳng qua đấy chỉ là những khoảnh khắc liên tục trên dòng tiếp nối của tâm thức ta và trong những khoảnh khắc liên tục ấy nghiệp tác động để lưu lại những vết hằn. Vậy chúng ta đã thấy rõ là mối dây ấy (tức mối dây thứ 3: tri thức) sinh ra từ tác ý (tức mối dây thứ 2: hành, sự tạo nghiệp) và vai trò của nó là lưu giữ lại các vết hằn do nghiệp tạo ra. Có thể nêu lên thí dụ như sau, chẳng hạn như ta đi câu cá, đây chỉ là một thí dụ thôi, sẽ có hai trường hợp xảy ra, một là sau khi câu được cá ta sẽ thả con cá xuống nước trở lại vì ta không muốn tạo ra đau khổ cho nó, (cũng xin nói thêm là trong các nước Âu châu có nhiều người thích câu cá, nhưng khi câu được cá thì lại thả chúng xuống nước trở lại. Câu cá đối với họ chỉ là thú vui hay "thề thao" mà thôi). Hoặc ngược lại ta rất thích ăn cá chiên và điều đó sẽ xui khiến ta cứ giữ con cá lại. Trong trường hợp này thì nhất định vào một thời điểm nào đó trong tâm thức ta sẽ xảy ra ý định để cho con cá chết. Ý định đó là một tác ý: có nghĩa là tâm thức ta cố tình giữ lại con cá để giết nó, tác động do tác tác ý ấy gây ra sẽ lưu lại một vết hằn của nghiệp trên dòng tri thức của ta, và nhất định đấy là một vết hằn mang tính cách tiêu cực.

Cô A.G.: Và đó cũng là những gì sẽ làm phát sinh ra danh xưng và hình tướng (tức mối dây thứ 4: danh sắc), mối dây này được tượng trưng trên biểu đồ bánh xe luân hồi bằng hai người đang ngồi trên một chiếc thuyền. Vậy biểu tượng đó có ý nghĩa ra sao?

Ông P. Arène: Trước hết là có hai người: một người tượng trưng cho danh xưng, một người cho hình tướng. Tiếp theo là hình ảnh con thuyền tượng trưng cho sự chuyên chở ta từ sự hiện hữu này sang sự hiện hữu khác, biến thân xác này của ta thành thân xác của một cá thể mà ta sẽ trở thành trong tương lai, từ khi sinh cho đến lúc chết.

Cô A.G.: Vậy vai trò của mối dây ấy là gì?

Ông P. Arène: Có thể xem mối dây ấy (danh xưng và hình tướng) là điểm khởi đầu cho một sự hiện hữu mới, một con người mới vừa được sinh trở lại. Vậy phải định nghĩa mối dây ấy như thế nào? Hình tướng thì rất dễ hiểu. Danh xưng và hình tướng nói chung thì đại khái có thể hiểu như là năm thứ cấu hợp (ngũ uẩn). Một trong năm cấu hợp liên quan đến hình tướng tức là thân xác, thân xác đó hình thành từ sự kết hợp giữa hai tế bào của cha và của mẹ. Bốn cấu hợp còn lại liên quan đến tâm thức: đó là các cấu hợp thuộc giác cảm, tác ý, sự nhận biết và tri thức, nói một cách tổng quát thì đấy là tâm thức của ta. Và đó chính là thành phần tâm linh bám sâu vào các tế bào của cha và mẹ thuộc mối dây sinh (thụ thai). Một cách đơn giản người ta có thể phân biệt thành hai thành phần khác nhau là hình tướng và tâm thức, cả hai tạo ra thể dạng phôi khi mới được hình thành. Đó là điểm khởi đầu đánh dấu sự hiện hữu của một cá thể.

Cô A.G.: Mối dây sau cùng mà chúng ta sẽ trình bày trước khi chấm dứt buổi thảo luận hôm nay là mối dây thuộc lãnh vực tri thức (mối dây thứ 5: lục căn, tức sáu giác cảm hay sáu khả năng hiểu biết). Xin ông hãy giải thích mối dây này liên quan đến mối dây danh xưng và hình tướng như thế nào.

Ông P. Arène: Cũng dễ hiểu thôi vì mối dây liên quan đến sự hiểu biết chỉ là quá trình phát triển liên tục và tuần tự của một cá thể tái sinh bắt đầu từ thể dạng phôi. Mối dây này được tượng trưng bằng một căn nhà trong biểu đồ của bánh xe hiện hữu, căn nhà có sáu cửa sổ tượng trưng cho sáu cơ sở hiểu biết, hay sáu khả năng giác cảm, gồm có thính giác, thị giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và tri thức. Sáu khả năng giác cảm đó bắt đầu phát tiển từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai và kéo dài cho đến khi đầy đủ khả năng ghi nhận được những biến đổi phát sinh từ sự tiếp xúc với ngoại cảnh, chẳng hạn như sự va chạm với một vật thể nào đó.

Cô A.G.: Xin cám ơn ông thật nhiều. 

 

Buổi phát sóng ngày 12 tháng 8 năm 2007

Cô A.G.: Xin ông có thể nào tóm lược lại thật ngắn gọn năm mối dây tương liên đã được trình bày trong buổi phát sóng trước đây.

Ông P. Arène: Mối dây thứ nhất là vô minh, mối dây này đương nhiên có nghĩa là sự cảm nhận hay nắm bắt sai lầm về cái tôi. Mối dây thứ hai là nghiệp khai mào hay phát khởi, sở dĩ gọi là khai mào hay phát khởi là vì nghiệp này sẽ mang lại một kiếp sống mới. Mối dây thứ ba gọi là tri thức, gồm có hai thành phần: thành phần thứ nhất là tri thức thuộc vào giây phút xảy ra nguyên nhân (tức là giây phút chi phối bởi xung động của nghiệp có sẵn trong kiếp trước) và phần thứ hai là tri thức liên quan đến hậu quả (tức là tri thức thuộc vào giai đoạn tái sinh. Tóm lại tri thức giữ vai trò nối liền hai kiếp sống, là một động lực phát sinh từ xung năng của nghiệp để thúc đẩy sự tái sinh, hết kiếp này đến kiếp khác). Tri thức thuộc vào kiếp tái sinh hình thành ngay khi xảy ra sự thụ thai. Điều đó cho thấy nếu muốn cho chuỗi liên kết của mười hai mối dây được diễn tiến đầy đủ thì phải cần có hai kiếp sống nối tiếp nhau. Sau khi phần tri thức liên quan đến hậu quả phát sinh thì cũng sẽ phát sinh danh xưng và hình tướng tức là thể dạng phôi, đó là giai đoạn đầu tiên của một cá thể sẽ được sinh ra sau này. Sau khi đã trở thành danh xưng và hình tướng thì các khả năng giác cảm của một cá thể cũng sẽ theo đó mà phát triển, bắt đầu từ tuần lễ thứ chín sau khi thụ thai cho đến lúc mối dây kế tiếp bắt đầu hình thành (mối dây thứ 6: xúc), tức là lúc xảy ra một sự tiếp xúc của các khả năng giác cảm với một vật thể nào đó, sự tiếp xúc ấy tạo ra một sự biến đổi mà giác cảm có thể ghi nhận được. 

Cô A.G.: Điều đó làm phát sinh ra mối dây thứ sáu tức là mối dây liên quan đến sự tiếp xúc. Xin ông cho biết mối dây này được tượng trưng như thế nào trên sơ đồ của bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Mối dây thứ sáu được tượng trưng bởi một người đàn ông và một người đàn bà đang ôm nhau. Sự tiếp xúc thể xác đó tuợng trưng cho sự kết hợp giữa một vật thể và một cơ quan giác cảm liên quan trực tiếp với khả năng tri thức liên hệ (vật thể, xúc giác và tri thức về xúc giác), sau khi hội đủ ba thành phần như vừa kể thì sự tiếp xúc sẽ diễn đạt vật thể ấy theo các dạng thức khác nhau (tức là mối dây thứ bảy: thụ, hay là sự cảm biết) như thích thú, khó chịu hay trung hòa. 

Cô A.G.: Tuy nhiên ngay trong lúc đó người ta chưa có thể diễn đạt được (trong giai đoạn ghi nhận của mối dây thứ sáu), bởi vì sự cảm biết chưa phát sinh?

Ông P. Arène: Đúng là như thế. Phân biệt được hai thể dạng này cũng không phải là dễ, bởi vì trên thực tế mối dây tiếp xúc chỉ là một thứ chất liệu để tiếp nhận một vết hằn in lên đó mà thôi, sau đấy thì vết hằn mới được diễn đạt thành thích thú, khó chịu hay trung hòa.

Cô A.G.: Sự cảm nhận (hay cảm biết) sẽ xảy ra trong thời điểm này, và đó là mối dây thứ bảy, vậy mối dây này sẽ được tượng trưng như thế nào trên biểu đồ bánh xe luân hồi?

Ông P. Arène: Sự cảm nhận hay cảm biết được tượng trưng bởi một người bị một mũi tên đâm vào mắt. Đó là một cảm giác thật mạnh và nhất định sẽ gây ra khó chịu, điều đó cũng ngụ ý nêu lên ba loại giác cảm khác nhau: thích thú, khó chịu và trung hòa. Đến đây xin trở lại yếu tố liên quan trực tiếp đến sự cảm nhận. Thật ra thì sự cảm nhận vừa là một yếu tố tâm thần lại vừa là một thể dạng có tính cách cấu hợp, tuy nhiên để đơn giản hóa sự phức tạp này chúng ta sẽ thu hẹp ý nghĩa của sự cảm nhận trong lãnh vực tâm thần mà thôi, vậy chức năng của nó là nhận biết một vật thể theo ba dạng thức cảm nhận trên đây (thích thú, khó chịu, trung hòa). Vậy có thể hiểu là nghiệp khi đã chín sẽ liên đới tạo ra những dạng thức cảm nhận khác nhau, có nghĩa là mỗi dạng thức cảm nhận là kết quả mang lại từ một thứ nghiệp nào đó đã được tích lũy từ trước. Dạng thức cảm nhận thích thú liên đới với nghiệp tích cực, dạng thức cảm nhận khó chịu liên đới với nghiệp tiêu cực và đối với dạng thức cảm nhận trung hòa thì vết hằn của nghiệp cũng mang tính cách trung hòa.

Cô A.G.: Đến đây thì chúng ta sẽ chuyển sang lãnh vực của mối dây thứ tám là sự thèm khát (ái), thèm khát không còn là một yếu tố tâm thần nữa mà đã chuyển sang một thứ gì khác, có phải thế không thưa ông?

Ông P. Arène: Thèm khát là một hình thức của bám víu và bám víu vẫn còn là một yếu tố tâm thần, tuy nhiên thuộc vào một cấp bậc khác hơn, nếu có thể nói như thế.

Cô A.G.: Vậy yếu tố này được tượng trưng như thế nào?

Ông P. Arène: Sự thèm khát được tượng trưng bằng một người đang uống nước, có một số bình luận gia cho là đang uống rượu. Tại sao lại là rượu? Bởi vì rượu không làm hết khát mà chỉ làm cơn khát sẵn có trở nên gay gắt thêm.

Cô A.G.: Chẳng qua đấy chỉ là những gì đặc thù của thế giới ta bà, tức là dục vọng này làm phát sinh ra dục vọng khác?

Ông P. Arène: Đúng như thế. Sự thèm khát quái lạ đó thật ra chỉ là một hình thức bám víu, có thể nói đấy là một cách tập trung và tác động. Thi dụ đối với một giác cảm tích cực thì sẽ sinh ra sự ham muốn được kéo dài thêm giác cảm ấy, đối với một giác cảm tiêu cực thì mong muốn làm sao có thể tránh được nó, đối với một giác cảm trung hòa thì mong muốn nó đừng hóa thành tệ hại. Sự thèm khát giữ một vai trò thật quan trọng mà chúng ta đã nêu lên phớt qua trong phần trên đây khi đề cập đến sự chuyển tải các vết hằn của nghiệp, mang lại sự tái sinh và sự hình thành của tri thức hậu quả. Tại sao lại như thế? Bởi vì như chúng ta đã biết, sự thèm khát và tham lam quá độ là những gì đã tiếp tay nuôi dưỡng cho vết hằn của nghiệp.

Cô A.G.: Vậy căn cứ vào sự kiện đó chúng ta cũng có thể bảo rằng mối dây tiếp theo là sự chiếm giữ (mối dây thứ 9: thủ), sẽ liên kết với mối dây thèm khát (mối dây thứ 8: ái), tuy nhiên vẫn có một sự khác biệt khá lớn giữa hai mối dây đó, có phải như thế không, thưa ông?

Ông P. Arène: Vâng, đúng là một sự tiếp nối của mối dây thèm khát mà người ta gọi là tham lam (dục vọng), mối dây của sự chiếm giữ được tượng trưng bằng một người đàn bà hay đàn ông, hoặc một con khỉ đang cướp đoạt một trái cây. Cướp đoạt có nghĩa là chiếm giữ và trong trường hợp đó chủ thể chiếm giữ hoàn toàn bị thu hút bởi đối tượng, chính đó là điểm khác biệt so với sự thèm khát đơn thuần, bởi vì sự thèm khát đơn thuần trong mối dây trước chỉ là một hình thức mong muốn kéo dài sự cảm nhận thích thú, tức là còn thuộc trong lãnh vực của giác cảm (không cần đòi hỏi đối tượng phải là sở hữu của mình).

Cô A.G.: Trong khi đó thì tham lam là một hình thức thúc đẩy muốn chiếm đoạt đối tượng tức là những giác cảm đó, có phải thế không thưa ông?

Ông P. Arène: Đúng là như thế. Tham lam có nghĩa là bám víu vào vật thể tạo ra giác cảm, có nghĩa là nhắm thẳng vào vật thể bám víu mà quên đi không còn trực tiếp chú ý đến các giác cảm nữa. 

Cô A.G.: Vậy khi các vết hằn của nghịệp đã chín muồi thì sẽ chuyển sang mối dây tương liên của sự hình thành (mối dây thứ 10: hữu, sinh khởi). Tại sao mối dây này là một mối dây có tầm quan trọng lớn lao, và người ta đã tượng trưng nó như thế nào?

Ông P. Arène: Sự hình thành là giai đoạn cuối cùng của quá trình níu kéo, có nghĩa là trong giai đoạn này nghiệp khơi mào dưới dạng thể một vết hằn đã chín muồi sau khi được nuôi dưỡng bởi sự thèm khát và sự tham lam như vừa được đề cập trên đây, nó sẽ đạt được đầy đủ khả năng để tạo ra một sự sinh mới tức là tái sinh, và khả năng tạo ra một sự sinh mới gọi là mối dây hình thành (mối dây thứ 10: hữu), một số học giả còn dịch mối dây hình thành (devenir) là mối dây hiện hữu (existence). Sự hình thành được tượng trưng bởi một người phụ nữ mang thai. Quả thật không có cách tượng trưng nào hay hơn, bởi vì hình ảnh đó cho thấy một cá thể đang được hình thành.

Cô A.G.: Vậy tiếp theo đó là mối dây gọi là sinh, tức là người phụ nữ sẽ hạ sinh ?

Ông A.G.: Mối dây gọi là sinh có một đặc điểm riêng: nó khởi sự từ lúc tri thức thâm nhập vào các tế bào của cha mẹ (tinh trùng và noãn cầu). Sự sinh sẽ khởi sự cùng lúc với sự hình thành của danh xưng và hình tướng (tức là thụ thai). Thật ra thì đấy chỉ là sự kết hợp của các cấu thể sẵn có (tri thức, tinh trùng và noãn cầu). Những gì đặc thù trong mối dây tương liên này là sự diễn biến liên tục từ khi bắt đầu xảy ra biến cố sinh (thụ thai) kéo dài cho đến biến cố chết.

Cô A.G.: Vậy có phải vẫn còn nằm trong lãnh vực của mối dây thứ 11? 

Ông P. Arène: Đúng như thế, tất cả mọi người trong chúng ta đều đang bị vướng mằc trong mối dây thứ 11, kể cả cô và cả tôi trong lúc này.

Cô A.G.: Vậy tất cả rồi sẽ phải chuyển sang mối dây tương liên thứ mười hai: tức là sự già nua, cái chết và khổ đau. Tại sao mối dây này lại được xem là khoen cuối cùng trong toàn bộ sợi dây xích tương liên? 

Ông P. Arène: Thật hết sức hiển nhiên, có sinh tất có tử. Vậy già nua và cái chết thật sự là gì? Trên thực tế thì sự già nua bắt đầu ngay sau khi thụ thai, sự già nua đó không giống với sự già nua mà chúng ta thường hiểu, vì thông thường chúng ta cho rằng sự già nua chỉ có thể xảy ra sau giai đoạn trưởng thành. Đối với Phật giáo thì sự già nua khởi sự ngay từ khoảnh khắc thứ hai sau khoảnh khắc thứ nhất là sự thụ thai. Tế bào của cha và mẹ kết hợp để tạo ra hình tướng và có thể gọi đấy là thân xác, trong quá trình phát triển của cấu hợp hình tướng các biến dạng sẽ phát sinh theo và cứ thế mà tiếp tục cho đến giai đoạn chót gọi là sự già nua. Còn cái chết thì có nghĩa là sự hủy hoại của cấu hợp hình tướng hay thân xác.

Cô A.G.: Cần phải có bao nhiêu kiếp sống để hoàn tất toàn bộ một chu kỳ như thế?

Ông P. Arène: Cần phải có ít nhất hai kiếp sống, điều này đã được nói đến trước đây. Tri thức thuộc giai đoạn hậu quả (tái sinh) chỉ có thể hình thành khi bắt đầu một kiếp sống tiếp theo sau. Cũng cần phải hiểu là giữa hai giai đoạn tri thức nguyên nhân (tạo nghiệp) và tri thức hậu quả (tái sinh) cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống (trung gian). Khi nói đến hai kiếp sống thì đấy là hai kiếp sống trong cùng một chu kỳ. Có nghĩa là tri thức của ta sẽ gồm có hai phần: tri thức của giai đoạn nguyên nhân và tri thức của giai đoạn hậu quả. Giữa hai giai đoạn tri thức đó, nếu như vết hằn của nghiệp khơi mào không hội đủ cơ duyên hay điều kiện để trở thành chín muồi thì cũng có thể xảy ra nhiều kiếp sống khác (có nghĩa là vô minh nguyên thủy sinh ra nghiệp khơi mào, nếu nghiệp khơi mào không hội đủ cơ duyên để để trở thành chín muồi "giúp" cho một cá thể đạt được thể dạng già nua thì cá thể ấy sẽ phải chết non vì tác động của một thứ nghiệp khác mạnh hơn, chẳng hạn như các trường hợp chết ở thể dạng phôi, thai nhi, ấu nhi, hay chết trẻ vì bệnh tật, tai nạn, bị xử tử..., chu kỳ luân hồi sẽ quay ngược lại mối dây sinh trước khi xảy ra mối dây cuối cùng là già nua, bệnh tật và cái chết). Tuy nhiên thì dầu sao trong trường hợp này ít ra cũng phải cần có thêm một kiếp sống mới nữa thì toàn bộ chu kỳ mới có thể hoàn tất được. Nếu muốn cho mười hai mối dây tương liên diễn biến trở lại đầy đủ thì phải cần ít nhất là ba kiếp sống là như thế.

Cô A.G.: Vậy ông có thể nào giải thích toàn bộ diễn tiến đó theo chiều ngược lại để theo dõi xem sự lôi kéo liên tục sẽ xảy ra như thế nào ? 

Ông P. Arène: Người ta có thể hình dung theo chiều ngược lại giống như tháo gỡ tuần tự từng quân bài được xếp chống lên nhau để tạo thành một cái nhà. Nếu không có sinh thì không có tử, nếu không có hình thành thì sẽ không có sinh. Nếu không có thèm khát và tham lam thì sẽ không có các thứ khác xảy ra tiếp theo sau. Cứ như thế người ta có thể đi ngược trở về nguyên nhân đầu tiên tức là vô minh, nếu có thể nói như thế.

Cô A.G.: Vậy, người ta có thể tự giải thoát ra khỏi chu kỳ tái sinh để khỏi quay trở lại lại thế giới ta bà hay không? Có phương pháp nào giúp thực hiện được điều đó hay chăng?

Ông P. Arène: Nhất định là phải có một phương pháp để thực hiện điều đó, nếu không thì Phật giáo không có một lý do nào để tồn tại, vì vai trò của Phật giáo không phải chỉ để mô tả các hiện tượng mà thôi. Vô minh tác động vào sự sống của chúng ta từ những thời gian không khởi thủy và nó không phải là một thành phần nội tại thuộc bản thể tự nhiên của tâm thức. Vì lý do vô minh không phải là thành phần tự nhiên của tâm thức nên ta có thể loại bỏ được nó. Nhưng phải làm thế nào? Phải dựa vào những gì trực tiếp đối nghịch với nó tức là đối nghịch với sự nhận biết sai lầm về cái tôi, sự đối nghịch ấy chính là trí tuệ tối thượng giúp nhìn thấy cái tôi, cái ngã đúng với thực thể của nó, tức là tính cách lệ thuộc của cái tôi.

Cô A.G.: Có phải đấy là cách giúp chúng ta tái sinh trong một thể dạng tự do không còn bị trói buộc?

Ông P. Arène: Khi mà ta không còn vướng mắc vào sự nắm bắt sai lầm ấy nữa, thì lúc đó ta sẽ không còn nhìn thấy tính cách tuyệt đối của cái tôi nữa, và ta chỉ xem nó là một thứ gì mang tính cách lệ thuộc, hoàn toàn trống không về sự hiện hữu. Chính đấy là chủ thuyết về Tánh không, tức là sự trống không của mọi sự hiện hữu. Khi đã quán nhận được điều đó ta sẽ cảm thấy mình không còn liên hệ với cái tôi giống như trước kia nữa. Ta sẽ không còn phải tái sinh ngoài sự mong muốn của mình trong trong bất cứ một cõi nào thuộc vào thế giới luân hồi. Tuy nhiên ta vẫn có thể tự hỏi nếu như không tái sinh trở lại trong thế giới ta bà thì ta sẽ trở thành cái gì đây?

Cô A.G.: Đúng thế, điều đó cũng không có nghĩa là sẽ rơi vào cõi hư không?

Ông P. Arène: Đúng như thế. Tự mình nhận thấy đã thoát ra khỏi thế giới ta bà, tuy nhiên ta vẫn có thể tự nguyện quay trở lại với cái thế giới khổ đau ấy, và nếu chọn giải pháp đó thì ta sẽ phải tiếp tục lang thang trong thế giới ta bà, nhưng tuyệt nhiên sẽ không còn khồ đau như trước nữa. Thật ra khi đã thoát ra khỏi thế giới ta bà thì ta sẽ có hai cách tái sinh khác nhau để chọn lựa: cách thứ nhất là tái sinh vào cõi Tịnh độ của chư Phật, cách thứ hai là quay về với thế giới hiện hữu như vừa trình bày trên đây. Nếu như ta quay lại làm người thì đương nhiên ta sẽ phải chấp nhận sự sinh và cái chết, nhưng thay vì phải gánh chịu khổ đau như những người bình thường thì ta sẽ không còn cảm thấy khổ đau trong sự sinh, sự hình thành và cái chết nữa. 

Cô A.G.: Thưa ông Pierre Arène, xin cám ơn ông về những lời giải thích thật minh bạch của ông.

http://www.bouddhisme-france.org  (1)
http://www.bouddhisme-france.org  (2)

Bures-Sur-Yvette, 10.01.10
Hoang Phong

---------------------------------------------------------------------------------

    Bên mình link rút gọn, thỉnh thoảng xuất quảng cáo (nhưng rất ít thôi). Blog cũng cần chi phí để duy trì, khi download bạn thông cảm giúp về sự bất tiện này. Cũng nhanh thôi...

   Link download:  


   mediafire 01              mediafire 02              mediafire 03   

---------------------------------------------------------------------------------




Văn Hải
Chào mừng và rất vui các bạn đến với blog chia sẻ mình!

Tham quan du ngoạn từ Nam chí Bắc:

An Giang || Bà Rịa - Vũng Tàu || Bắc Giang || Bắc Kạn || Bạc Liêu || Bắc Ninh || Bến Tre || Bình Dương || Bình Định || Bình Phước || Bình Thuận || Cà Mau || Cao Bằng || Cần Thơ || Đà Nẵng || Đắk Lắk || Đắk Nông || Điện Biên || Đồng Nai || Đồng Tháp || Hà Giang || Hà Nam || Hà Tĩnh || Hải Dương || Hậu Giang || Hòa Bình || Hưng Yên || Khánh Hòa || Kiên Giang || Kon Tum || Lai Châu || Lâm Đồng || Lạng Sơn || Lào Cai || Long An || Về Miền Tây || Nam Định || Nghệ An || Ninh Bình || Ninh Thuận || Phú Thọ || Quảng Bình || Quảng Nam || Quảng Ngãi || Quảng Ninh || Quảng Trị || Sóc Trăng || Sơn La || Về Tây Nguyên || Tây Ninh || Thái Bình || Thái Nguyên || Thanh Hóa || Thừa Thiên Huế || Thành phố Hồ Chí Minh || Thủ Đô Hà Nội || Tiền Giang || Trà Vinh || Tuyên Quang || Vĩnh Long || Vĩnh Phúc || Yên Bái

|| || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || || ||

Bộ sưu tập ảnh hot:

|| || || || || || || || || || || || || || || || || ||
Like bài viết nếu bạn thấy hay và có ích :
Những gì mình biết, hãy chia sẻ cho mọi người cùng biết nhé! Xin mời bạn bình chọn!

Bạn đã xem chưa

0 nhận xét | Viết lời bình

Copyright © 2014 Haitaynamkg Knowledge Humanity